Chương II: ĐẢNG BỘ CƠ QUAN DÂN CHÍNH ĐẢNG TỈNH NGHỆ AN TRONG GIAI ĐOẠN KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1954 – 1975)

I. LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CÁCH MẠNG DÂN CHỦ, CẢI TẠO QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (1954 – 1960)

Sau khi được thành lập, Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng đã tập trung vào việc ổn định tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và công nhân viên chức; tham gia công tác sắp xếp, củng cố tổ chức các chi bộ cơ sở, tăng cường khối đoàn kết nội bộ trong các cơ quan; chỉ định ban chi ủy lâm thời đối với các chi bộ mới thành lập, chỉ đạo các cơ sở đảng tiến hành đại hội theo hướng dẫn của trên để kiện toàn cấp ủy và chi bộ; quy định chế độ sinh hoạt của chi bộ, tổ đảng, đặt ra lề lối làm việc và mối quan hệ giữa các chi bộ cơ sở đảng với Ban Chấp hành Đảng bộ, giữa chi ủy với lãnh đạo cơ quan, xác định trách nhiệm của chi bộ trong việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ công tác chuyên môn ở cơ quan, đơn vị. Đảng bộ cũng có kế hoạch chỉ đạo các chi bộ củng cố xây dựng các tổ chức quần chúng: Đoàn Thanh niên, Công đoàn, Hội Phụ nữ,… Những việc làm phù hợp nói trên là tiền đề vững chắc để Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng lãnh đạo cán bộ, đảng viên, công nhân viên thực hiện tốt việc hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn, xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng cũng như xây dựng Đảng về tổ chức, cán bộ trước mắt và sau này.

Cuối tháng 9/1954, ở Nghệ An xảy ra trận lụt lịch sử. Cả 12 huyện, thị trong tỉnh mức độ ảnh hưởng nặng nhẹ khác nhau nhưng đều bị ngập lụt. Thiệt hại do lũ lụt gây ra đối với Nhân dân tỉnh nhà rất nghiêm trọng, nặng nề. Khó khăn về đời sống của Nhân dân Nghệ An càng nhân lên, do sức tàn phá đến thảm khốc của lũ lụt.

Những tháng cuối của năm 1954, trong bộn bề của những nhiệm vụ cấp bách, Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng đã chỉ đạo, bằng mọi cách các tổ chức cơ sở, đảng viên, cán bộ công nhân viên phải quán triệt và thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị khẩn cấp của Tỉnh ủy: Sản xuất chống đói (19/10/1954), Vận động đoàn kết sản xuất, chống âm mưu địch ở các huyện thượng du (2/11/1954), Làm tốt công tác vận động giáo dân và đón tiếp cán bộ, đồng bào miền Nam tập kết (6/11/1954). Qua quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của Tỉnh ủy, tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên, công nhân viên thuộc cơ quan Dân Chính Đảng cấp tỉnh đều tin tưởng với những giải pháp cụ thể, thiết thực của Tỉnh ủy, những khó khăn trước mắt của Nhân dân tỉnh nhà sẽ sớm được khắc phục.

Bên cạnh đó, Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng còn tập trung chỉ đạo: một mặt, các cơ sở đảng lãnh đạo cơ quan, đơn vị cử cán bộ, đảng viên tham gia các đoàn cán bộ do tỉnh tổ chức, đi về các cơ sở chỉ đạo và cùng Nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai, tiến hành công tác vận động tôn giáo, xây dựng củng cố các cơ sở đảng, chính quyền ở những địa bàn xung yếu; mặt khác, lãnh đạo cán bộ, đảng viên, công nhân viên công tác tại công sở, hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn của bản thân được giao và gắng sức gánh vác thêm việc của những đồng chí đi cơ sở, tất cả cùng đồng lòng, góp sức giải quyết khó khăn chung.

Nét nổi bật của cán bộ, đảng viên, công nhân viên thuộc các cơ quan Dân Chính Đảng cấp tỉnh là, dù công tác tại công sở hay được cử về các địa phương, hầu hết đều tỏ rõ tinh thần thông cảm, chia sẻ sâu sắc với những khó khăn trước mắt của đơn vị và Nhân dân, đều nung nấu một quyết tâm dồn hết sức mình cho công việc được giao.

Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, các đoàn cán bộ các ngành cấp tỉnh đã đi sâu, đi sát vào giáo dân để tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của đồng bào và lựa lời thuyết phục bà con đi theo lẽ phải, để trọn bề kính Chúa, yêu nước. Đối với bọn phản động đầu sỏ lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng, cán bộ ta đã vạch rõ tội trạng chống phá của chúng và cương quyết trừng trị.

Hoạt động khẩn trương của Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng trong thực hiện nhiệm vụ cấp bách của Đảng bộ tỉnh những tháng cuối năm 1954 đã góp phần hết sức quan trọng cùng Nhân dân tỉnh nhà đẩy lùi âm mưu phá hoại của địch, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, kịp thời khắc phục hậu quả lũ lụt, đẩy mạnh sản xuất ổn định đời sống Nhân dân, tích cực thực hiện Hiệp định Giơnevơ, đón tiếp chu đáo, an toàn đồng bào miền Nam tập kết. Đó cũng là thành tích thiết thực nhất của Đảng bộ chào mừng 25 năm ngày thành lập Đảng (1930 – 1955).

Sau khi quân đội Pháp rút khỏi, nhiệm vụ chống đế quốc ở miền Bắc đã được hoàn thành triệt để, cách mạng dân tộc căn bản đã kết thúc, song nhiệm vụ chống phong kiến vẫn đang làm dở. Nhân dân ta đã làm chủ miền Bắc, do đó có điều kiện hoàn thành cải cách ruộng đất, xóa bỏ hoàn toàn chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp và công, thương nghiệp.

Bước vào thời kỳ cách mạng mới, dưới sự lãnh đạo sát sao của Liên khu ủy 4, Tỉnh ủy, với niềm tin của những người chiến thắng, các tổ chức đảng trong Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng cấp tỉnh đã giữ vững và phát huy vai trò “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, cùng với cán bộ, đảng viên, công nhân, viên chức trong các ban, ngành cấp tỉnh vượt qua khó khăn thử thách, từng bước hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao.

Đầu năm 1955, các ban, ngành, đơn vị, cơ quan Dân Chính Đảng cấp tỉnh ngoài đảm nhận nhiệm vụ chuyên môn còn được tỉnh điều động một số đông cán bộ, đảng viên, công nhân viên đi huấn luyện, bồi dưỡng chính sách tăng cường cho công tác cải cách ruộng đất ở nông thôn.

Tháng 3/1955, tỉnh Nghệ An tiến hành cải cách ruộng đất đợt III(1) tại 81 xã ở các huyện: Quỳnh Lưu, Diễn Châu và Yên Thành. Sau hội nghị tổng kết cải cách ruộng đất đợt III của Liên khu ủy 4, Nghệ An tiến hành cải cách ruộng đất đợt IV từ tháng 9 đến tháng 12/1955, tại 10 xã thuộc huyện Nghi Lộc. Từ tháng 1/1956, tiến hành cải cách ruộng đất đợt V tại 225 xã thuộc các huyện: Nghĩa Đàn, Anh Sơn, Thanh Chương, Nam Đàn và Hưng Nguyên. Do có kinh nghiệm của các đợt cải cách trước nên ở đợt IV, đợt V của cuộc cải cách ruộng đất được tiến hành nhanh chóng. Tháng 6/1956, công cuộc cải cách ruộng đất toàn tỉnh Nghệ An căn bản hoàn thành trong 346 xã.

Tháng 9/1956, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) đã kết luận về thắng lợi của cải cách ruộng đất: “Cuộc vận động giảm tô và cải cách ruộng đất đã căn bản hoàn thành nhiệm vụ phản phong ở miền Bắc. Nông dân lao động ta đã thấy rõ chính Đảng ta và chế độ ta đã đưa lại ruộng đất cho họ. Sức sản xuất to lớn ở nông thôn được giải phóng, quan hệ sản xuất ở nông thôn đang đổi mới, do đó sức sản xuất nông nghiệp bước đầu đẩy mạnh, đời sống nông dân bước đầu được cải thiện, mở đầu cho công thương nghiệp phát triển và góp phần quan trọng vào công cuộc củng cố miền Bắc, phát triển kinh tế, văn hóa của Nhà nước. Nhưng trong cuộc vận động này, chúng ta đã phạm những sai lầm nghiêm trọng trên một số vấn đề có tính nguyên tắc”(2).

Từ ngày 22/10/1956 đến 1/11/1956, Tỉnh ủy Nghệ An họp (mở rộng) nghiên cứu quán triệt Nghị quyết lần thứ 10 của Trung ương Đảng (khóa II), đánh giá tình hình nông dân, nông thôn trong tỉnh, phân tích tác hại và nguyên nhân sai lầm nghiêm trọng của cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức.

Theo chủ trương của Tỉnh ủy, tháng 11/1956, Ban Chấp hành Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng được kiện toàn. Đồng chí Nguyễn Xuân Huy, Tỉnh ủy viên, Chánh Văn phòng Tỉnh ủy được chỉ định làm Bí thư Đảng ủy. Cấp ủy được kiện toàn, đi vào chỉ đạo sửa sai một cách nghiêm túc theo tinh thần Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cán bộ, Nhân dân ngày 18/8/1956 về việc kiên quyết sửa chữa sai lầm của cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II). Nhờ sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn thể Nhân dân trong tỉnh, trong đó có sự đóng góp quan trọng của cán bộ, đảng viên, công nhân viên các cơ quan Dân Chính Đảng cấp tỉnh, đến tháng 10/1957, công tác sửa sai cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức ở Nghệ An căn bản kết thúc thắng lợi.

Song song với tiến hành công tác cải cách ruộng đất, sửa sai, Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng đã lãnh đạo các ban, ngành cấp tỉnh phát huy vai trò tổ chức tham mưu phục vụ Tỉnh ủy, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban hành chính, Mặt trận Tổ quốc tỉnh, giúp lãnh đạo các ngành xây dựng chủ trương, kế hoạch, chỉ đạo các địa phương, các tổ chức kinh tế, xã hội thực hiện nhiệm vụ then chốt là phục hồi và phát triển nông nghiệp, đưa sản lượng lương thực tỉnh nhà vượt mức trước Chiến tranh thế giới II (năm 1939).

Để hoàn thành nhiệm vụ, các ngành chức năng đã tập trung sức lực, trí tuệ của đội ngũ cán bộ, tham mưu giúp cấp ủy, lãnh đạo ngành huy động sức dân, thực hiện kế hoạch khôi phục hàng ngàn hécta ruộng đất bỏ hoang; khôi phục các công trình thủy lợi bị máy bay địch phá hoại như công trình thủy nông Bắc, thủy nông Nam, bara Nam Đàn,… đào hàng ngàn giếng trữ nước, đáp ứng nhu cầu tưới của hàng ngàn hécta diện tích cây trồng. Ủy ban hành chính và các ngành trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp, đã cùng với các địa phương vận động nông dân cố gắng đến mức tối đa thực thi biện pháp “nước, phân, cần, giống” để phát triển sản xuất nông nghiệp.

Phong trào xây dựng tổ đổi công được duy trì, củng cố và tiếp tục phát triển. Nhờ phát triển hiệp tác lao động trong sản xuất nên gieo trồng kịp thời vụ, việc chăm bón, phòng trừ sâu bệnh được chú ý, cây trồng, con nuôi phát triển tốt, cho năng suất khá.

Sản xuất nông nghiệp năm 1957: “Chỉ tính riêng vụ chính là chiêm, mùa, nông dân Nghệ An đã gieo cấy 173.833ha, sản lượng lương thực đạt 299.376 tấn. Đối với Nghệ An, một tỉnh trước đây thường xuyên thiếu lúa gạo, đạt được kết quả đó là thắng lợi lớn. Chấm dứt được thiếu đói ở miền núi, còn có lúa gạo cung cấp một phần cho Hà Tĩnh, Quảng Bình. Chăn nuôi gia súc, gia cầm đều vượt kế hoạch, nhất là chăn nuôi lợn, vịt đàn đã đạt thành tích dẫn đầu Liên khu 4…”(3).

Cùng với khôi phục kinh tế, các mặt văn hóa, giáo dục, y tế đều được chú ý phát triển. Kết quả trên các lĩnh vực y tế, giáo dục đều vượt xa năm 1955 và đạt Kế hoạch nhà nước năm 1957.

Tháng 12/1957, Đảng bộ và Nhân dân Nghệ An cùng miền Bắc căn bản hoàn thành thắng lợi Kế hoạch khôi phục kinh tế – xã hội 3 năm (1955 – 1957). Những thành tựu đạt được trong thời gian này đã làm thay đổi đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhân dân. Song, trên thực tế, một số hình thức bóc lột chưa được xóa bỏ, vì vậy, nhiệm vụ trước mắt là phải tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần cá thể của nông dân, thợ thủ công, người buôn bán nhỏ và kinh tế tư bản tư doanh, đồng thời phát triển kinh tế quốc doanh là lực lượng chủ đạo của nền kinh tế.

Bước vào thực hiện Kế hoạch 3 năm cải tạo quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa (1958 – 1960) trên cơ sở lãnh đạo tốt công tác chính trị, tư tưởng làm cho cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức trong Đảng bộ quán triệt sâu sắc các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết lần thứ 14 (11/1958), Nghị quyết lần thứ 16 (4/1959) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X (1959), Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng và các tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo đơn vị đẩy mạnh phong trào thi đua, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ trung tâm của tỉnh, kế hoạch chuyên môn của ngành, của đơn vị.

Trong những năm 1958 – 1959, các cơ quan trong Đảng bộ Dân Chính Đảng đã cử hàng trăm lượt cán bộ, trong đó không ít người là cán bộ phụ trách chính của ban, ngành cấp tỉnh hăng hái tham gia cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp. Nhất là các ban, ngành trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp như: Ty Nông nghiệp, Ty Thương nghiệp, Ngân hàng Nhà nước, Ban Nông thôn, Công ty Vật tư, đều có kế hoạch, chương trình cụ thể phục vụ cuộc vận động.

Hầu hết cán bộ, đảng viên của Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng về công tác ở nông thôn đều mang hết nhiệt tình, trách nhiệm, năng lực sẵn có của mình, ra sức phục vụ Nhân dân. Bà con nông dân không chỉ được giúp đỡ về mặt tư tưởng, hiểu biết về chính sách mới về nông dân, nông nghiệp, nông thôn của Đảng, Bác Hồ mà còn được các cán bộ của tỉnh tận tình hướng dẫn nâng cao về trình độ kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, cách tổ chức sản xuất.

Để tiếp tục làm tốt công tác tham mưu lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức Đảng, được sự đồng ý của Tỉnh ủy, vào tháng 2/1959, Đại hội Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh Nghệ An lần thứ II được tổ chức. Đại hội đã đánh giá ưu, khuyết điểm trong công tác lãnh đạo nhiệm kỳ 1954 – 1959. Trong đó nhấn mạnh thành tích nổi bật của phong trào thi đua xây dựng Đảng bộ nhiệm kỳ qua: phong trào của cơ quan có sự chuyển biến mạnh hơn, sâu hơn, đều hơn. Về quy mô, Đảng bộ lúc này có 48 chi bộ, 1.800 đảng viên, số đảng viên tăng so với năm 1954 là 1.000 người. Tuy nhiên, Đại hội cũng khẳng định phong trào phát triển chưa thật mạnh, chưa sâu và liên tục. Trên cơ sở nắm chắc đặc điểm, ưu điểm, khuyết điểm, vị trí của Đảng bộ, quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng, Đại hội đã vạch ra phương hướng, nhiệm vụ cho nhiệm kỳ mới là: phát huy những thành tích đã đạt được, đặc biệt là kết quả chỉnh huấn quán triệt nhiệm vụ của các loại tổ chức cơ sở, nâng cao vai trò lãnh đạo của chi bộ, tăng cường quan hệ giữa đảng và quần chúng; tiếp tục bồi dưỡng quan điểm xã hội chủ nghĩa, nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ, tiếp tục chống chủ nghĩa cá nhân, giữ vững đoàn kết nội bộ Đảng; động viên mọi lực lượng đem hết nhiệt tình cách mạng, dám nghĩ, dám nói, dám làm, ra sức phát huy sáng kiến cải tiến công tác.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 15 uỷ viên. Tại phiên họp đầu tiên, Ban Chấp hành Đảng bộ bầu đồng chí Chu Mạnh giữ chức Bí thư Đảng ủy.

Sau Đại hội, Đảng bộ đã lãnh đạo các tổ chức cơ sở đảng của mình làm tốt các nhiệm vụ đã đề ra.

Về kinh tế, vai trò của Đảng bộ được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực, trong đó tập trung chủ yếu vào các công trường, xí nghiệp, thương nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,… Đối với các công trường, xí nghiệp, cán bộ, đảng viên, công nhân viên tham gia phong trào thi đua vượt “Duyên Hải, Tây Hiếu”, chăm lo chú ý cải tiến tổ chức hợp lý hóa sản xuất, cải tiến kỹ thuật, vì vậy đã giải quyết được nhiều khó khăn về nguyên liệu, nhân lực, tiền vốn lao động, tạo ra năng suất cao, đảm bảo chất lượng công trình và sản phẩm hàng hóa. Ty Kiến trúc, Ty Nông nghiệp hằng năm hoàn thành kế hoạch, giữ vững lá cờ đầu toàn tỉnh. Đối với ngành Thương nghiệp, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của 22 chi bộ, 1.019 đảng viên, 3.122 cán bộ, công nhân viên (chiếm hơn 1/2 số cán bộ, đảng viên, công nhân viên toàn Đảng bộ), với phong trào thi đua “Ba tốt” (thu mua tốt, bảo quản tốt, phân phối tốt), ra sức cải tiến kinh doanh. Khắc phục tình trạng “yết giá treo cân”, “được chăng hay chớ”. Tích cực vừa mua vừa bán, vừa vận động sản xuất, vừa khai thác nguồn hàng, vừa quy hoạch xây dựng thị trường. Đặc biệt là kết quả thu mua nông sản, lâm thổ sản, hải sản đã góp phần tích cực nâng cao nguồn thu nhập của nông dân, ngư dân trong nhiều vùng, vừa cải thiện đời sống Nhân dân, vừa tập trung được khối lượng lớn vật tư, hàng hóa vào tay Nhà nước, đảm bảo ổn định giá cả, ổn định thị trường trong những năm 1958 – 1960. Nhân dân tăng thêm lòng tin tưởng vào đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, khối liên minh công nông do đó cũng được thắt chặt, làm chỗ dựa cho công cuộc cải cách nông nghiệp, vận động hợp tác hóa ở nông thôn. Tiêu biểu cho phong trào thi đua sản xuất, kinh doanh hoàn thành nhiệm vụ ngành có Công ty Nông thổ sản, liên tục 3 năm là lá cờ đầu của ngành, năm 1960, được Chính phủ tặng thưởng Huân chương.

Đối với ngành Y tế, cán bộ, đảng viên, công nhân viên ngành (Ty Y tế, các bệnh viện cấp tỉnh) với quyết tâm giành lá cờ đầu toàn miền Bắc, đẩy mạnh phong trào “3 cải tiến”, đã dốc toàn tâm, toàn trí của người thầy thuốc vào trị bệnh, cứu người, tích cực phòng bệnh, chống dịch, bảo đảm sức khỏe cho người lao động. Nhờ đó trong 3 năm liền, ngành liên tục hoàn thành kế hoạch.

Các trường học chuyên nghiệp, thuộc ngành Nông nghiệp, Công nghiệp, Y tế, Giáo dục luôn giữ vững phong trào thi đua thực hiện tốt nguyên lý giáo dục lý luận liên hệ với thực tiễn, học tập gắn liền với lao động sản xuất. Phấn đấu rèn luyện trở thành người lao động toàn diện, có giác ngộ xã hội chủ nghĩa, có tri thức khoa học, có sức khỏe dồi dào. Trong các năm học, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp đạt 90%, nổi bật trong phong trào thi đua dạy và học có Trường Y tế Nghệ An đã được Chính phủ tặng thưởng Huân chương trong năm học 1959 – 1960.

Trong các cơ quan hành chính sự nghiệp, cán bộ, đảng viên dù ở cương vị, lĩnh vực công tác nào cũng ra sức nghiên cứu, tập hợp xử lý thông tin, nâng cao chất lượng tham mưu, chỉ đạo phục vụ Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh, Mặt trận và ngành một cách sát thực với yêu cầu, đảm bảo kịp thời, chính xác, đạt hiệu quả cao hơn.

Mặc dù các cán bộ, đảng viên, công nhân viên trong Đảng bộ, mỗi người mỗi việc, nhịp điệu hoạt động, nếp sống khác nhau nhưng đều có suy nghĩ và hành động, phấn đấu cho kế hoạch nhà nước được hoàn thành, cho tỉnh nhà giàu mạnh, cho hạnh phúc Nhân dân. Ý nghĩ và hành động đó biểu thị ý thức trách nhiệm, tinh thần tự lực cánh sinh, quan điểm phục vụ sản xuất, phục vụ đời sống của Nhân dân, của cán bộ, đảng viên, công nhân, viên chức trong toàn Đảng bộ được đề cao. Tiêu biểu cho tinh thần chung đó là các đơn vị: Tỉnh đoàn Thanh niên lao động, Chi cục Thống kê, Công ty Nông thổ sản, vào cuối Kế hoạch 3 năm (1958 – 1960) đã được Chính phủ tặng Huân chương Lao động. 17 đơn vị gồm: Công ty Thuốc Nam Bắc, Xưởng cao đơn hoàn tán, Cửa hàng Kim khí I, Kho Bách hóa, Cửa hàng bông vải sợi, Ty Kiến trúc, Ty Tài chính, Quốc doanh Chiếu bóng, Ty Thương nghiệp, Liên hiệp Công đoàn, Phát hành sách, Ngân hàng, Ty Giáo dục, Ty Văn hóa, Ty Lâm nghiệp và Ty Nông nghiệp được Hội đồng Thi đua – Khen thưởng tỉnh đề nghị Chính phủ tặng Bằng khen. Kết thúc kế hoạch năm 1960, Đảng bộ có 758 cán bộ được bầu là Chiến sĩ thi đua và hàng trăm tổ, đơn vị là đơn vị, tổ đội lao động xã hội chủ nghĩa.

Phong trào thi đua yêu nước được Đảng bộ chú trọng. Việc hiến kế cải tiến kỹ thuật, cải tiến lề lối làm việc để nâng cao năng suất lao động, hiệu quả công tác luôn được khuyến khích, cổ vũ. Đảng bộ, các tổ chức cơ sở đảng đã làm cho cán bộ, đảng viên, công nhân viên trong các ban, ngành nhận thức rõ, thi đua phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa trong tổ chức lao động, sản xuất, học tập thực chất là cuộc đấu tranh chống tư tưởng bảo thủ, chống quan liêu xa, rời quần chúng, xa thực tế, chống lãng phí tham ô, phát huy tinh thần làm chủ tập thể, lao động sáng tạo của quần chúng trong xây dựng cơ quan, đơn vị. Nhờ đó đã có 4.000 sáng kiến lớn nhỏ, làm lợi cho kinh tế nhà nước hàng chục triệu đồng. Có những sáng kiến làm tăng năng suất lao động, vượt xa định mức cho phép, như việc cải tiến cắt tôn của Xí nghiệp Kim khí, cải tiến lò nấu thuốc Bắc – Nam, lò nấu ăn ở Cửa hàng Quang Trung. Những sáng kiến cải tiến chưa nhiều so với yêu cầu, nhưng cũng đủ phản ánh rõ thái độ làm chủ, tinh thần dám nghĩ, dám làm của cán bộ, đảng viên, công nhân, viên chức trong Đảng bộ.

Trên lĩnh vực quốc phòng – an ninh, các cơ sở đảng đã lãnh đạo cán bộ, đảng viên, công nhân viên cơ quan tích cực thực hiện cuộc vận động bảo mật phòng gian, nêu cao ý thức cảnh giác cách mạng, bảo vệ nội bộ Đảng, bảo vệ cơ quan. Lãnh đạo tốt việc xây dựng các đội dân quân tự vệ. Nhiều đơn vị trong Đảng bộ luôn giữ vững là lá cờ đầu trong tỉnh về thành tích huấn luyện, quản lý, sử dụng lực lượng dân quân tự vệ như: Ty Bưu điện, Kho Xăng dầu, Công ty Ăn uống,…

Đối với công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng là đảng bộ cấp trên của các tổ chức cơ sở đảng trong các cơ quan lãnh đạo chủ chốt của tỉnh, của các ngành, tiếp cận sớm những nghị quyết của Đảng, chủ trương của Chính phủ, của tỉnh nhà, cụ thể hóa các nghị quyết của Trung ương, tham mưu giúp Tỉnh ủy, Ủy ban hành chính tỉnh ban hành các quyết định về mặt Đảng, Nhà nước, đoàn thể và chỉ đạo thực hiện thắng lợi các quyết định trong phạm vi toàn tỉnh. Đảng bộ không những lãnh đạo toàn diện, mà còn chăm lo xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Chất lượng của cơ sở đảng, đảng viên có ảnh hưởng trực tiếp tới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban hành chính tỉnh, các ban, ngành cũng như phong trào chung của tỉnh. Nhận thức đầy đủ đặc điểm, vị trí của mình, Đảng bộ, các chi bộ cơ sở đảng đã thường xuyên chăm lo lãnh đạo tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, gắn chặt công tác xây dựng Đảng về tư tưởng với công tác chuyên môn.

Nội dung công tác tư tưởng của Đảng bộ là: củng cố lập trường giai cấp vô sản, nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa, nhiệt tình và chí khí phấn đấu không ngừng; phát huy tinh thần tự phê bình và phê bình, khắc phục mọi biểu hiện của tư tưởng cá nhân chủ nghĩa; củng cố và phát triển tổ chức Đảng, tăng cường đoàn kết nội bộ, thắt chặt quan hệ giữa Đảng và quần chúng, đề cao vai trò lãnh đạo của chi bộ, đảm bảo tốt mọi mặt công tác của cơ quan, phát huy đầy đủ tinh thần tích cực, sáng tạo của cán bộ, đảng viên, động viên toàn thể cán bộ, đảng viên, công nhân viên hăng hái thi đua vượt tới trước, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, hiệu quả công tác, thực hiện vượt mức kế hoạch nhà nước hằng năm.

Thực hiện nội dung tư tưởng trên của Đảng bộ, các tổ chức cơ sở đảng đã thường xuyên tập trung chỉ đạo quán triệt kịp thời đường lối, chủ trương, chính sách mới của Đảng, Chính phủ. Với cách làm phong phú, thông qua nhiều kênh tuyên truyền, phổ biến, thời kỳ này, hầu hết cán bộ, đảng viên, công nhân viên trong toàn Đảng bộ đều được các chi bộ quán triệt sâu sắc những nội dung bài nói chuyện của Bác Hồ ngày 14/6/1957 với cán bộ, đảng viên Cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh Nghệ An trong chuyến về thăm quê đầu tiên sau 50 năm xa cách của Người; nội dung của các nghị quyết lần thứ 10, 14, 15, 16 và dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, các nghị quyết của Tỉnh ủy và nội dung kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội hằng năm. Phần lớn các ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ đều là cán bộ chủ trì của các ban, ngành, một số đồng chí là Tỉnh ủy viên nên được tỉnh tổ chức quán triệt các nghị quyết mới của Trung ương Đảng một cách có hệ thống, có đồng chí cùng một nghị quyết vừa được học ở Trung ương, vừa được học ở tỉnh, đó cũng là một thuận lợi đối với việc thực hiện các đợt học tập nghị quyết, chủ trương của Đảng ở Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng cấp tỉnh. Bên cạnh đó, Đảng bộ còn tổ chức được các lớp học tập lý luận chính trị cả tập trung và tại chức cho hàng trăm lượt cán bộ, đảng viên, công nhân viên trong Đảng bộ. Ngoài việc thường xuyên phối hợp với Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy phổ biến thời sự, chính sách theo quy định của Trung ương, các ban, ngành, đơn vị đã tổ chức và duy trì nền nếp các hội nghị chuyên đề, chuyên ngành để nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ, công nhân viên.

Đi đôi với việc tổ chức học tập đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ, Đảng bộ và các tổ chức cơ sở còn chủ trương mở các cuộc vận động xây dựng chi bộ, nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu của mỗi đảng viên, phấn đấu tất cả đảng viên đều là đảng viên tiên tiến.

Thành tích to lớn của Đảng bộ trong thời kỳ thực hiện cải tạo quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế, văn hóa (1958 – 1960) là làm chuyển biến mạnh mẽ tư tưởng, bước đầu cải biến về tổ chức và lề lối làm việc của cơ quan, tăng cường quản lý xí nghiệp, cửa hàng, trường học, bệnh viện, góp phần hoàn thành kế hoạch nhà nước của ngành, của đơn vị, thúc đẩy phong trào chung trong nông nghiệp, công nghiệp, văn hóa, giáo dục, y tế, quốc phòng – an ninh của tỉnh nhà, phục vụ nhiệm vụ trung tâm của tỉnh.

Để tiếp tục làm tốt công tác tham mưu lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức Đảng, được sự đồng ý của Tỉnh ủy, vào tháng 5/1960, Đại hội Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng lần thứ III được tổ chức. Đại hội đã đánh giá ưu, khuyết điểm trong công tác lãnh đạo nhiệm kỳ 1959 – 1960. Đồng thời, vạch ra phương hướng, nhiệm vụ cho nhiệm kỳ mới là: phát huy những thành tích đã đạt được, đặc biệt là kết quả chỉnh huấn quán triệt nhiệm vụ của các loại tổ chức cơ sở, nâng cao vai trò lãnh đạo của chi bộ, tăng cường quan hệ giữa Đảng và quần chúng; tiếp tục bồi dưỡng quan điểm xã hội chủ nghĩa, nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ, tiếp tục chống chủ nghĩa cá nhân, giữ vững đoàn kết nội bộ Đảng.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 18 ủy viên. Tại phiên họp đầu tiên, Ban Chấp hành Đảng bộ bầu đồng chí Chu Mạnh tiếp tục giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy.

Về kinh tế, sau Đại hội, Đảng bộ và các tổ chức cơ sở tiếp tục vận động Nhân dân tham gia công cuộc xây dựng “Ba ngọn cờ hồng”. Cử cán bộ về nông thôn vận động hợp tác hóa. Nhờ sự tích cực giáo dục của Đảng, ý thức tự giác của giai cấp nông dân nên phong trào hợp tác hóa nông nghiệp ở Nghệ An phát triển nhanh, đến năm 1961 căn bản đã hoàn thành. Đối với ngành Thương nghiệp đã tích cực vừa mua vừa bán, vừa vận động sản xuất, vừa khai thác nguồn hàng, vừa quy hoạch xây dựng thị trường. Đặc biệt là, kết quả thu mua nông sản, lâm thổ sản, hải sản đã góp phần tích cực nâng cao nguồn thu nhập của nông dân, ngư dân trong nhiều vùng, vừa cải thiện đời sống Nhân dân lao động, vừa tập trung được khối lượng lớn vật tư, hàng hóa cho Nhà nước, đảm bảo ổn định giá cả, ổn định thị trường.

Đối với các cơ quan hành chính sự nghiệp, hoạt động của cán bộ, đảng viên, công nhân viên trong Đảng bộ luôn có ý thức trách nhiệm, tinh thần tự lực cánh sinh.

Đối với công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ đã phát triển từ 48 lên 61 chi bộ, trong đó có 2 liên chi và 3 đảng ủy trực thuộc, với 2.459 đảng viên ở tổng số 5.805 cán bộ, công nhân viên ở các cơ quan Dân Chính Đảng cấp tỉnh.

Để làm tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo, Đảng bộ đã sắp xếp các tổ chức đảng thành các các khối như sau:

  • Thương nghiệp: 22 chi bộ, 1.019 đảng viên trong số 3.122 cán bộ, công nhân viên.
  • Kinh tế Tài chính: 14 chi bộ, 476 đảng viên/ 966 cán bộ, công nhân viên.
  • Nội chính: 15 chi bộ, 569 đảng viên/ 702 cán bộ, công nhân viên.
  • Văn hóa xã hội: 10 chi bộ, 395 đảng viên/ 985 cán bộ, công nhân viên.

Để phù hợp với hoạt động của các đơn vị, bảo đảm ở đâu có quần chúng là ở đó có sự lãnh đạo của Đảng, Đảng bộ đã tích cực cải tiến tổ chức. Từ đầu năm 1960, Đảng bộ đã tiến hành chia tách một số chi bộ, thành lập chi bộ mới để đảm bảo sự lãnh đạo của chi bộ gắn sát với nhiệm vụ chuyên môn của đơn vị như: Chi bộ Mặt trận tỉnh, Chi bộ Toà án tỉnh, Chi bộ Thực phẩm, Chi bộ Trạm thủ công xuất khẩu, Chi bộ Ban vận động hợp tác xã, Chi bộ Kim khí. Thành lập Liên chi Cơ quan vật liệu xây dựng, 3 đảng ủy trực thuộc gồm: Đảng ủy cơ quan Tỉnh ủy, Đảng ủy cơ quan Ủy ban hành chính tỉnh và Đảng ủy Công an tỉnh. Đồng thời đã bàn giao một số trạm, tổ lẻ hoạt động xa cơ quan như: Trạm Nông lâm thổ sản; một số cửa hàng ở Nam Đàn, Hưng Nguyên,… về sinh hoạt ở các đảng bộ huyện. Nhờ đó đã tăng cường một bước quan trọng sự lãnh đạo của Đảng bộ với các cơ sở đảng, với mọi cán bộ, đảng viên, công nhân viên ở các ban, ngành, đơn vị.

Công tác giáo dục chính trị tư tưởng liên tục, có nội dung cụ thể, bám sát thực tế đã giúp cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức nâng cao nhận thức về vai trò sứ mệnh của giai cấp công nhân. Đồng thời, thấy rõ những quan điểm, bước đi đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong lãnh đạo công cuộc khôi phục kinh tế, văn hóa, cải tạo xã hội chủ nghĩa miền Bắc, giải quyết quan hệ đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân miền Nam, vai trò, nhiệm vụ của Nhân dân miền Bắc đối với sự nghiệp đấu tranh, thống nhất đất nước. Bên cạnh đó, Đảng bộ đã làm tốt công tác bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên, công nhân viên, giúp họ có niềm tin sắt đá vào sự tất thắng của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Từ đó, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý thức trách nhiệm cá nhân, tinh thần tập thể, ý chí khắc phục khó khăn, tình đoàn kết cộng sự của mỗi một cán bộ, đảng viên, công nhân viên, tập trung vào hoàn thành kế hoạch, nhiệm vụ được giao.

Công tác xây dựng tổ chức Đảng, nâng cao chất lượng đảng viên và công tác phát triển đảng viên mới trong những năm 1955 – 1960 cơ bản có nhiều tiến bộ, song bên cạnh đó về mặt tổ chức còn khó khăn và bất hợp lý, chưa giải quyết được. Số lượng chi bộ đông, lại nhiều loại hình có tính chất khác nhau. Nhiều chi bộ bao gồm cả bộ phận hành chính với sản xuất, hoặc gồm cả bộ phận tĩnh tại với lưu động ở các huyện. Vì vậy đã ảnh hưởng đến việc thực hiện nguyên tắc, đảm bảo sinh hoạt dân chủ nội bộ.

II.  LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT (1961 – 1965)

Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (5 – 10/9/1960) và Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X vòng 2 (20 – 30/3/1961), Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng cùng các đảng bộ khác trong tỉnh bước vào thực hiện cuộc Chỉnh huấn mùa Xuân năm 1961 theo chủ trương của Bộ Chính trị. Đây là đợt sinh hoạt chính trị nhằm góp phần tích cực xây dựng những con người của chủ nghĩa xã hội theo quan điểm: tất cả phục vụ sản xuất, cần kiệm xây dựng đất nước, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.

Thông qua cuộc Chỉnh huấn mùa Xuân, một lần nữa cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng được quán triệt sâu sắc các văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ III, nhất là về hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, xác định rõ vị trí, nghĩa vụ của miền Bắc xã hội chủ nghĩa đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; về quan điểm, đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, mục tiêu kinh tế – xã hội của Kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất; mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng trong 5 năm (1961 – 1965), mục tiêu kinh tế – xã hội Kế hoạch 2 năm (1961 – 1962) của Nghệ An do Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X vòng 2 đề ra.

Từ ngày 4 đến 8/11/1961, Đại hội đại biểu Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng lần thứ IV được tổ chức tại thị xã Vinh, có 147 đại biểu đại diện cho 2.575 đảng viên trong toàn Đảng bộ tham dự. Đại hội đánh giá ưu, khuyết điểm trong công tác lãnh đạo nhiệm kỳ 1960 – 1961. Đồng thời nhấn mạnh thành tích nổi bật của phong trào thi đua xây dựng Đảng bộ nhiệm kỳ qua: “Phong trào của cơ quan có sự chuyển biến mạnh hơn, sâu hơn, đều hơn. Phong trào có tính chất quần chúng tự giác và sáng tạo, vai trò của chi bộ, Đảng ủy trong các cơ quan nói chung được đề cao hơn trước, đã đi sâu hơn vào nội dung lãnh đạo đảm bảo công tác chuyên môn, đẩy mạnh mọi mặt hoạt động. Sự lãnh đạo toàn diện của các tổ chức cơ sở, xí nghiệp, kinh doanh, các đơn vị văn hóa – xã hội đã dần dần đi vào nền nếp. Trình độ lý luận chính trị, trình độ tư tưởng, chính sách, nghiệp vụ tiến bộ rõ rệt, quan hệ giữa Đảng và quần chúng ngày càng được tăng cường,…”(4).

Đại hội cũng khẳng định: “Phong trào phát triển chưa thật mạnh, chưa sâu và liên tục, chưa tương xứng với vị trí và đặc điểm của Đảng bộ chưa đáp ứng được với yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, giai đoạn lấy nhiệm vụ xây dựng làm trọng tâm, trung tâm là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa”(5).

Trên cơ sở nắm chắc đặc điểm, ưu điểm, khuyết điểm, vị trí của Đảng bộ, quán triệt quan điểm đường lối Đại hội lần thứ III của Đảng, Đại hội lần thứ X Đảng bộ tỉnh, Đại hội đã vạch ra phương hướng nhiệm vụ cho nhiệm kỳ mới: “Phát huy những thành tích đã đạt được, đặc biệt là kết quả chỉnh huấn quán triệt nhiệm vụ của các loại tổ chức cơ sở, nâng cao vai trò lãnh đạo của chi bộ, tăng cường quan hệ giữa Đảng và quần chúng; tiếp tục bồi dưỡng quan điểm xã hội chủ nghĩa, nâng cao trình độ chính sách chuyên môn, nghiệp vụ, tiếp tục chống chủ nghĩa cá nhân, giữ vững đoàn kết nội bộ Đảng; động viên mọi lực lượng đem hết nhiệt tình cách mạng, dám nghĩ, dám nói, dám làm, ra sức phát huy sáng kiến cải tiến công tác, chống quan liêu, lãng phí tham ô; phấn đấu tăng nhanh hiệu suất lao động, đưa phong trào tiến nhanh, tiến mạnh, tiến liên tục, hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà nước và nhiệm vụ công tác cơ quan, phục vụ nhiệm vụ trung tâm, góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước”(6).

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 17 uỷ viên (trong đó có 14 uỷ viên chính thức, 3 uỷ viên dự khuyết). Ban Chấp hành Đảng bộ bầu đồng chí Nguyễn Sĩ Cầu giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy, đồng chí Nguyễn Văn Bỉnh giữ chức vụ Phó Bí thư Đảng ủy.

Đại hội Đảng bộ lần thứ IV thành công tốt đẹp đã mở ra thời kỳ mới, thời kỳ cán bộ, đảng viên, công nhân viên các cơ quan Dân Chính Đảng cấp tỉnh cùng chung sức với Nhân dân đẩy mạnh công cuộc xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở tỉnh nhà. Nhiệm vụ cụ thể của Đảng bộ lúc này là, lãnh đạo làm cho cán bộ, đảng viên, công nhân viên trong các cơ quan Dân Chính Đảng cấp tỉnh quán triệt những quan điểm lớn của Đảng do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đề ra. Trong đó tập trung vào các nội dung như: Xây dựng ý thức làm chủ và tinh thần tập thể, tinh thần sản xuất và phục vụ sản xuất; ý thức cần kiệm xây dựng đất nước; tinh thần tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời, chống các quan điểm sai lầm về chủ nghĩa cá nhân, cục bộ bản vị, quan liêu mệnh lệnh, tham ô, lãng phí, bảo thủ, rụt rè.

Để thực hiện tốt các nhiệm vụ đã đề ra, Đảng bộ chỉ đạo các cơ sở đảng tổ chức cho cán bộ, đảng viên, công nhân viên các cơ quan Dân Chính Đảng học tập cơ bản, đúng kế hoạch chỉ đạo của Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy cả về nội dung và thời gian. Các nội dung quan điểm Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 4 (4/1961), lần thứ 5 (7/1961), lần thứ 7 (6/1962) về cuộc vận động xây dựng chi bộ “4 tốt”, về phát triển nông nghiệp; nhiệm vụ phát triển công nghiệp trong Kế hoạch 5 năm (1961 – 1965); các nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng như: cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật trong hợp tác xã nông nghiệp, nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính trong công nghiệp và khu vực quốc doanh (thường được gọi là cuộc vận động “Ba xây, ba chống”); Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X vòng 2 (3/1961), lần thứ XI (8/1963),… được các cơ sở đảng trong Đảng bộ chăm lo tổ chức học tập, vì vậy hầu hết cán bộ, đảng viên, công nhân viên đều thấm nhuần sâu sắc.

Ngoài việc triển khai tốt việc học tập chủ trương, chính sách của Đảng, Đảng bộ còn tổ chức tham quan học tập các điển hình tiên tiến về trình độ tổ chức quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, công nhân viên ở trong và ngoài tỉnh như: tham quan Hợp tác xã Đại Phong (Quảng Bình), tham quan một số cơ quan cấp tỉnh, điển hình trong việc tổ chức sản xuất tự túc cải thiện đời sống cho cán bộ, công nhân như tỉnh Hải – Ninh(7). Đồng thời, phát động các phong trào thi đua yêu nước trên tất cả các lĩnh vực. Mở đầu là chiến dịch “An – Ngãi quật khởi” tiếp đến chiến dịch “Lam – Trà nổi sóng”, “Chào mừng Hồ Chủ tịch về thăm quê lần thứ hai” (12/1961), thi đua đuổi vượt “Duyên Hải, Đại Phong, Ba nhất”… Trong xí nghiệp công, nông trường, cơ quan, với nội dung “hợp lý hóa sản xuất, cải tiến kỹ thuật” trên quê hương Nghệ An có phong trào “Bốn biến” (Biến không thành có, Biến khó thành dễ, Biến thiếu thành đủ, Biến cũ thành mới).

Với các khẩu hiệu hành động cụ thể: “Coi trọng sáng kiến nhỏ, không bỏ sáng kiến thường”, “Lên án năng suất cũ, ủng hộ năng suất mới, tiến tới năng suất cao”, chiến dịch nối tiếp chiến dịch, chiến công kề tiếp chiến công, sổ vàng thành tích của các ban, ngành, đơn vị các cơ quan Dân Chính Đảng cấp tỉnh ngày một dày thêm. Hàng ngàn lượt cán bộ, đảng viên, công nhân viên các cơ quan Dân Chính Đảng, qua phong trào thi đua thực hiện nhiệm vụ chuyên môn đã đóng góp nhiều sáng kiến, biện pháp cải tiến kỹ thuật, tổ chức và lề lối làm việc, giải quyết khó khăn, vươn lên hoàn thành và hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch 6 tháng đầu năm 1961. Thời gian này, đã có 33 đơn vị hoàn thành vượt mức kế hoạch trước thời hạn. Đến tháng 11/1961, có 5 đơn vị hoàn thành kế hoạch cả năm trước thời hạn từ 3 đến 3,5 tháng. Năm 1962, các cơ quan Dân Chính Đảng cấp tỉnh có trên 2.500 lượt sáng kiến cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức và lề lối làm việc. Năm 1963, có trên 3.000 sáng kiến, trong đó có nhiều sáng kiến đem lại giá trị lớn về kỹ thuật. Điển hình như, cải tiến máy khuyếch đại ở Ty Bưu điện; dùng nước cất chưng cất Hoàng Đằng của Xí nghiệp Dược; dùng thuốc Nam thay thuốc Tây chữa bệnh cho trâu bò của Ty Nông nghiệp;… Trên 500 sáng kiến cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức ở Ty Y tế, Bệnh viện Vinh và Bệnh viện Lao đã góp phần nâng cao chất lượng điều trị, phòng bệnh, điều dưỡng, hạ thấp tỷ lệ tử vong, tăng lưu lượng dưỡng bệnh,… làm cho ngành y tế tỉnh nhà có bước chuyển biến mạnh mẽ.

Trong các ngành khoa học – kỹ thuật phục vụ trực tiếp cho sản xuất công nghiệp, nông nghiệp cũng có nhiều phát kiến mới. Ty Nông nghiệp với hàng trăm sáng kiến cải tiến kỹ thuật có ý nghĩa thiết thực, góp phần bảo vệ và đẩy mạnh sản xuất trồng trọt, chăn nuôi. Bên cạnh đó đã thử nghiệm xác định đúng mùa vụ sinh trưởng của một số loại cây trồng, đưa lúa Nam Ninh vào sản xuất đại trà trong vụ hè thu, làm tăng vụ, bước đầu cho kết quả tốt, hạn chế một phần nạn thiếu đói vào những ngày giáp hạt tháng 8 hằng năm.

Từ tháng 4/1961, thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 của Trung ương Đảng về cuộc vận động “Xây dựng Đảng theo tiêu chuẩn chi bộ “4 tốt”(8), Đảng bộ đã chỉ đạo các cơ sở đảng xây dựng chi bộ theo tiêu chuẩn “4 tốt” với rèn luyện, phát huy vai trò gương mẫu của đội ngũ đảng viên. Hầu hết đảng viên nhận thức rõ việc xây dựng chi bộ theo tiêu chuẩn “4 tốt” với rèn luyện, phát huy vai trò gương mẫu của đội ngũ đảng viên là mối quan hệ nhân quả không gì thay thế được. Chất lượng, sức chiến đấu của chi bộ phụ thuộc vào năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đội ngũ đảng viên. Đường lối, chính sách của Đảng nói chung, nhiệm vụ chuyên môn của ban, ngành, đơn vị nói riêng đạt hiệu quả cao hay thấp phụ thuộc rất nhiều vào vai trò tích cực của cán bộ, đảng viên. Để đường lối, chính sách của Đảng trở thành hành động cách mạng của quần chúng thì đòi hỏi đảng viên không những là chiến sĩ tiên phong trong hành động thực tiễn mà còn phải biết vận động, thuyết phục, tổ chức quần chúng thực hiện. Cũng chính thông qua tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng mà đảng viên được rèn luyện trưởng thành, làm cho tính tổ chức, tính kỷ luật, trí sáng tạo của mỗi đảng viên được nhân lên.

Gắn với lãnh đạo phong trào quần chúng thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của ban, ngành, đơn vị, các cơ sở đảng trong Đảng bộ không ngừng được củng cố về các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức. Thông qua các chiến dịch thi đua, các cơ sở đảng đã củng cố chi bộ, phát huy vai trò gương mẫu của đội ngũ đảng viên theo định hướng của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 của Trung ương Đảng đề ra.

Những năm 1961 – 1963, qua các đợt củng cố chi bộ, các cơ sở đảng, đội ngũ đảng viên trong Đảng bộ luôn coi trọng việc thực hiện chế độ dân chủ tập trung, nguyên tắc tự phê bình và phê bình rộng rãi trong nội bộ Đảng. Mỗi đảng viên trong từng thời kỳ đều có phương hướng tu dưỡng, rèn luyện cụ thể. Nhờ đó đã có tác dụng thiết thực trong việc xây dựng lối sống lành mạnh, kỷ luật, trung thực với Đảng, tận tụy với quần chúng cho đội ngũ đảng viên.

Qua các kỳ đại hội cơ sở đảng, các đảng ủy, chi ủy được kiện toàn đủ về số lượng, chất lượng. Đa phần các cấp ủy viên được cơ sở chọn lựa đều tâm huyết với công tác xây dựng Đảng. Một số ủy viên cấp ủy mới, đầu kỳ đại hội còn thiếu kinh nghiệm công tác Đảng đã được Đảng bộ có kế hoạch bồi dưỡng, nên sớm được khắc phục. Chế độ quan hệ phối hợp công tác giữa Đảng ủy, chi ủy với thủ trưởng chuyên môn ngày càng tốt hơn. Nhất là khi có các chủ trương lớn, Đảng ủy đã chủ động phối hợp với đảng đoàn, ban cán sự đảng, thủ trưởng ban, ngành để kết hợp giữa công tác Đảng với công tác chuyên môn. Đặc biệt là, trong công tác đánh giá, sắp xếp bố trí đội ngũ cán bộ.

Đảng bộ đã phối hợp với các ban của Tỉnh ủy, đảng đoàn, các ban cán sự đảng, ngành tham mưu cho Tỉnh ủy, Ủy ban hành chính tỉnh xây dựng và triển khai thực hiện các đề án về tổ chức bộ máy Đảng, chính quyền, các ban, ngành cũng như thành lập mới một số cơ quan như: Báo Nghệ An, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng, Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh, Cục Tiết kiệm, chia tách thành lập các huyện mới(9),… Công tác cán bộ được các cấp ủy phối hợp với thủ trưởng chuyên môn có kế hoạch gắn với việc xây dựng nguồn phát triển Đảng, tạo ra nguồn cán bộ phong phú cho ban, ngành, đồng thời tạo thuận lợi cho công tác phát triển Đảng. Công tác phát triển đảng viên mới được tiến hành thận trọng, đúng thủ tục, có chất lượng.

Đảng bộ các cơ quan Dân Chính Đảng chỉ đạo sát sao các cơ sở đảng gắn công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng với việc thực hiện cuộc vận động “Ba xây, ba chống”. Nhờ đó đã nâng cao được tinh thần trách nhiệm, ý thức bảo vệ của công, tinh thần làm chủ tập thể cho đội ngũ đảng viên, từng bước ngăn chặn có hiệu quả biểu hiện tư tưởng của người làm thuê, tình trạng lỏng lẻo về kỷ luật trong lao động sản xuất, những biểu hiện tham ô, lãng phí. Thông qua việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của các ban, ngành, đơn vị, vai trò của các chi bộ cơ sở đảng ngày càng được củng cố, trình độ giác ngộ chính trị, tư tưởng, vai trò gương mẫu, tiên phong của đội ngũ đảng viên được bồi dưỡng và nâng cao, phát huy được vị trí lãnh đạo trong mọi hoạt động của đơn vị.

Tuy vậy, trong Đảng bộ vẫn còn một bộ phận đảng viên, thậm chí cả một số đồng chí cấp ủy chưa nhận thức thấu đáo về nhiệm vụ, chức năng của chi bộ đảng trong cơ quan. Do đó, tổ chức cơ sở đảng có lúc chưa được đề cao, nội dung phương thức hoạt động của chi bộ có nơi còn lúng túng. Đối với các cơ sở đảng có chức năng lãnh đạo toàn diện cũng chỉ mới làm công tác chính trị tư tưởng, chưa thực sự lãnh đạo sản xuất, chuyên môn. Hoặc lãnh đạo chuyên môn nhưng chưa toàn diện, mới chú ý kế hoạch chi tiêu, ít chú ý đến chất lượng sản phẩm, chất lượng của việc chấp hành chính sách. Nguyên tắc lãnh đạo tập thể của Đảng chưa được đề cao, phần lớn còn bàn bạc theo lối hội nghị liên tịch giữa đảng, chuyên môn, công đoàn. Một số đơn vị vì điều kiện công tác lưu động, phân tán, chi bộ đông đảng viên nhưng chưa có người chuyên trách công tác Đảng, mặt khác, do nhận thức về vai trò vị trí của cấp ủy chưa đầy đủ nên sự lãnh đạo của một số cấp ủy chưa được kiện toàn. Lãnh đạo tập thể có lúc không được thực hiện, vai trò phụ trách cá nhân chưa được đề cao, có chi bộ sau khi kiện toàn cấp ủy, tuy có phân công mỗi người mỗi việc nhưng thường chỉ tập trung ở đồng chí chủ trì.

Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, sau một thời gian chuẩn bị khẩn trương về mọi mặt, từ ngày 5 đến 8/6/1963, Đại hội đại biểu Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng lần thứ V được tổ chức tại thị xã Vinh. Dự Đại hội có 150 đại biểu, đại diện cho 2.832 đảng viên, sinh hoạt ở 22 đảng bộ cơ sở (có 133 chi bộ nhỏ) và 35 chi bộ trực thuộc, trong tổng số 8.735 cán bộ, công nhân viên chức, học sinh trong các cơ quan Dân Chính Đảng cấp tỉnh.

Sau 4 ngày làm việc khẩn trương, với trách nhiệm cao, Đại hội đã nhất trí quyết nghị phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ mới là: quán triệt hơn nữa đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, nhận rõ đặc điểm, vị trí của tỉnh nhà, nắm chắc nhiệm vụ trung tâm, nêu cao tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa, tinh thần làm chủ tập thể, lạc quan cách mạng, tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng Tổ quốc; khẩn trương, dũng cảm lao động, kiện toàn sự lãnh đạo của chi bộ, tiếp tục bồi dưỡng lập trường giai cấp vô sản, nâng cao ý chí phấn đấu, ý thức cảnh giác cách mạng, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, khắc phục chủ nghĩa cá nhân, ngại khó, bảo thủ, rụt rè, tự do tản mạn, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, kèn cựa địa vị, tính toán cá nhân; quyết tâm vượt khó khăn, ra sức cải tiến công tác, cải tiến tổ chức và lề lối công tác, tăng cường quản lý kinh tế, chống quan liêu, lãng phí, tham ô; phát huy hiệu lực của cơ quan Đảng, Nhà nước, phục vụ nhiệm vụ trung tâm hoàn thành kế hoạch nhà nước, góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 22 ủy viên (trong đó có 19 ủy viên chính thức, 3 ủy viên dự khuyết). Ban Chấp hành Đảng bộ bầu đồng chí Nguyễn Sĩ Cầu giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy, đồng chí Nguyễn Văn Bỉnh giữ chức vụ Phó Bí thư. Từ tháng 12/1963 đến tháng 2/1965, đồng chí Nguyễn Văn Bỉnh giữ vụ chức Bí thư Đảng uỷ thay đồng chí Nguyễn Sĩ Cầu.

Sau Đại hội, việc lãnh đạo chính trị, tư tưởng, tổ chức và động viên thi đua yêu nước là những khâu công tác chủ yếu của Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng và đó cũng là những khâu quan trọng để lãnh đạo đảm bảo công tác chuyên môn, thực hiện nhiệm vụ trung tâm của Đảng, hoàn thành kế hoạch của Nhà nước.

Về kinh tế, trên cơ sở quán triệt đường lối Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9/1960), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (7/1961), Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng bộ tỉnh (8/1963), hầu hết cán bộ, đảng viên, công nhân viên các cơ quan Dân Chính Đảng cấp tỉnh đều xác định rõ phát triển kinh tế nông nghiệp là cơ sở, giải quyết vấn đề lương thực là trọng tâm của kế hoạch nhà nước 5 năm (1961 – 1965). Từ đó, Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng cấp tỉnh đã phối hợp với đảng đoàn, ban cán sự và thủ trưởng chuyên môn các ban, ngành, đơn vị ra sức phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp. Các ban, ngành thuộc các cơ quan Dân Chính Đảng đã cử hàng trăm lượt cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ chủ trì và chuyên viên nghiên cứu về nông thôn bám vùng, bám điểm, nắm bắt đặc điểm, thuận lợi, khó khăn, những nhu cầu phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp, chắt lọc thông tin, đề xuất ý kiến tham mưu cho Tỉnh ủy, Ủy ban hành chính tỉnh, các ngành quyết định những giải pháp thích hợp, kịp thời động viên khuyến khích giai cấp nông dân tập thể tỉnh nhà ra sức thực hiện đường lối phát triển nông nghiệp của Đảng. Dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ, các cơ sở đảng trong các cơ quan Dân Chính Đảng cấp tỉnh tập trung lãnh đạo việc tham mưu cho Tỉnh ủy, Ủy ban hành chính tỉnh xây dựng, triển khai thực hiện thành công đề án cuộc vận động cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, củng cố hợp tác xã nông nghiệp của Trung ương Đảng vào địa bàn tỉnh. Quá trình thực hiện cuộc vận động cải tiến quản lý, kỹ thuật củng cố hợp tác xã nông nghiệp đã làm cho phong trào hợp tác hóa của tỉnh nhà được củng cố một bước quan trọng. Quy mô hợp tác xã nông nghiệp được mở rộng, nhiều hợp tác xã chuyển lên bậc cao. Công tác quản lý hợp tác xã nông nghiệp về các mặt sản xuất, lao động, tài vụ được cải tiến. Đến năm 1965, toàn tỉnh đã xây dựng được 10 nông trường quốc doanh, 2.620 hợp tác xã, trong đó hợp tác xã bậc cao chiếm 41,2%. Có đến 83,5% số hộ nông dân tham gia hợp tác xã. Gần 4 vạn đồng bào miền xuôi dời chuyển lên phát triển kinh tế nông nghiệp trung du, miền núi đã ổn định nơi ăn ở, đi vào sản xuất.

Ngành thủy lợi đã tham mưu kịp thời cho Ủy ban hành chính tỉnh về quy hoạch thủy lợi gắn với giao thông nông thôn, kiến thiết nội đồng không chỉ cho các vùng thuộc cấp tỉnh, mà còn vươn tới quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng cho cả một số địa bàn xã. Ngành đã tổ chức chỉ đạo mở những cuộc vận động cải tiến công cụ, vận chuyển xây đắp các công trình làm lợi cho Nhà nước, tập thể trị giá hàng trăm ngàn đồng. Một trong những điểm nổi bật của ngành là việc xây dựng và thực thi đề án xây dựng đội công trình chuyên trách làm thủy lợi của hợp tác xã, được nêu gương toàn miền Bắc.

Cán bộ, công nhân viên ngành công nghiệp cũng đã có hàng ngàn sáng kiến làm lợi cho ngành và tiết kiệm được tiền của cho Nhà nước. Trong đó, tiêu biểu có: Nhà máy Điện Vinh, dùng nhiên liệu than cám thay cho than cốc; Công ty Vận tải ô tô với tăng ca, tăng chuyến, giải phóng xe nhanh, liên tục trong 5 năm đều vượt chỉ tiêu kế hoạch nhà nước.

Ngành thương nghiệp với khẩu hiệu hành động “Vừa lòng khách đến, vui lòng khách đi” đã vươn lên đảm nhiệm vai trò “người nội trợ” xã hội, ra sức kinh doanh phục vụ cho sản xuất và đời sống Nhân dân. Các mặt hàng nông sản, chủ yếu là thóc do thương nghiệp mua, bán hằng năm tăng đều. Mạng lưới mậu dịch quốc doanh, hợp tác xã mua bán được phát triển.

Các ngành tài chính, tín dụng từng bước tham mưu chỉ đạo xây dựng và thực hiện đề án ổn định nguồn thu, tiết kiệm chi, phát huy hiệu quả đồng vốn, phục vụ tốt nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội của tỉnh nhà. Hướng cho vay của Ngân hàng Nhà nước tập trung phục vụ xây dựng cơ sở hạ tầng thủy lợi, giao thông, chăn nuôi tập thể, khai hoang, mở rộng diện tích canh tác và phát triển ngành nghề.

Các cơ quan hành chính sự nghiệp đã hướng phong trào thi đua vào cải tiến công tác, cải tiến tổ chức, cải tiến lề lối làm việc để phát huy tính chủ động, sáng tạo trong công tác của từng cán bộ, công nhân viên. Ngoài việc thường xuyên động viên đội ngũ cán bộ nghiên cứu bám sát chính sách, bám cơ sở, trăn trở suy nghĩ đề xuất ý kiến tham mưu, chỉ đạo phục vụ lãnh đạo, nhiều cơ quan đã có cải tiến quy mô, toàn diện về bộ máy và những quy chế làm việc cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên.

Các cơ quan trong Đảng bộ thực hiện tốt việc cải tiến tổ chức góp phần giảm bớt được 9 phòng, đưa 60 cán bộ gián tiếp về cơ sở trực tiếp chỉ đạo sản xuất ở cơ sở. Điển hình như: Ty Thuỷ lợi, qua cải tiến tổ chức đã giảm được 4 bộ phận, đưa 30 cán bộ tăng cường về cơ sở trực tiếp sản xuất và chỉ đạo sản xuất. Bên cạnh cải tiến tổ chức bộ máy, việc bố trí cán bộ đi sâu, đi sát tìm hiểu sản xuất, tìm hiểu mọi mặt đời sống xã hội, cung cấp thông tin phục vụ lãnh đạo cũng được các ban, ngành chú ý tăng cường. Nhiều cơ sở đã xây dựng được lề lối làm việc trên tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa, đề cao trách nhiệm cá nhân phụ trách, giữ nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhờ đó, các khuynh hướng chuyên môn đơn thuần, thái độ bàng quan, hời hợt trong công tác được khắc phục.

Kết quả lớn nhất của phong trào thi đua thực hiện “Ba cải tiến” là trên cơ sở hợp lý hóa về tổ chức, cải tiến lề lối làm việc và nâng cao tinh thần trách nhiệm cán bộ, đảng viên, công nhân viên, tăng cường sự chỉ đạo nghiệp vụ của ngành, hướng công tác ngành mình vào phục vụ sản xuất và đời sống của quần chúng, góp phần đẩy mạnh sản xuất và công tác, tăng hiệu suất lao động, tiết kiệm nguyên vật liệu và của cải cho Nhà nước, làm cho thành phần kinh tế quốc do anh được củng cố, mở rộng và khẳng định vị trí chủ đạo của mình trong nền kinh tế quốc dân. Mặt khác, nâng cao ý thức làm chủ tập thể, ý thức kỷ luật, thái độ tôn trọng của công cho toàn thể cán bộ, đảng viên, công nhân viên.

Gắn liền với các cuộc vận động xây dựng chi bộ “4 tốt” và rèn luyện đảng viên, Đảng bộ đã chỉ đạo các cơ sở đảng có kế hoạch từng bước xây dựng củng cố tổ chức công đoàn và đoàn thanh niên trong các cơ quan.

Mặc dù Đảng bộ không có tổ chức công đoàn đồng cấp nhưng cấp ủy đã phối hợp với đảng đoàn tham mưu cho Tỉnh ủy chỉ đạo Liên hiệp Công đoàn tỉnh tiến hành thành công Đại hội Liên hiệp Công đoàn tỉnh lần thứ VIII (1/1961), lần thứ IX (9/1963) và luôn chỉ đạo các cơ sở đảng chăm lo xây dựng công đoàn cơ sở. Hầu hết các tổ chức công đoàn cơ sở ở các cơ quan Dân Chính Đảng cấp tỉnh đều thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, thực sự là trường học giáo dục chủ nghĩa cộng sản cho mỗi đoàn viên. Nhờ đó đã động viên được đoàn viên tham gia phong trào thi đua yêu nước sôi nổi và liên tục, rộng rãi trong các ngành. Phong trào thi đua xây dựng tổ, đội lao động xã hội chủ nghĩa từ 3 tổ trong xí nghiệp – công nông trường đã lan tỏa khắp các ngành thương nghiệp, y tế, trường học, cơ quan. Hết nhiệm kỳ, Đại hội Công đoàn tỉnh lần thứ VIII đã có 19 tổ đội được Chính phủ công nhận, 192 tổ đăng ký ở tỉnh, 420 tổ đăng ký ở cơ sở là những điển hình tiên tiến, thúc đẩy sản xuất và công tác phát triển. Năm 1964, các ngành, xí nghiệp, công trường, y tế, giáo dục đã có 42 công đoàn cơ sở, 120 công đoàn bộ phận được khen thưởng.

Đoàn Thanh niên lao động thường xuyên được chăm lo xây dựng, củng cố về tư tưởng, tổ chức. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy đảng, Đoàn Thanh niên Lao động ở các cơ quan Dân Chính Đảng cấp tỉnh đã không ngừng trưởng thành, lớn mạnh. Phong trào những người tình nguyện vượt mức Kế hoạch 5 năm và những hoạt động chính trị, văn hóa diễn ra sôi nổi. Hầu hết trong các chiến dịch thi đua lực lượng thanh niên luôn xứng đáng vai trò xung kích. Từ năm 1961 đến 1965, các tổ chức đoàn đã kết nạp gần 1.000 thanh niên vào Đoàn, giới thiệu những đoàn viên ưu tú để Đảng bồi dưỡng. Thời gian này, có 511 đoàn viên ưu tú được kết nạp vào Đảng. Đó là kết quả phấn đấu tích cực của mỗi đoàn viên, thanh niên, đồng thời cũng thể hiện sự trưởng thành của tổ chức Đoàn Thanh niên cơ quan.

Trong khi Nhân dân miền Bắc đang ra sức thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội thì ở miền Nam, đế quốc Mỹ ráo riết tiến hành Chiến tranh đặc biệt, đàn áp phong trào đấu tranh cách mạng của Nhân

dân, đồng thời chúng ra sức thực hiện âm mưu phá hoại miền Bắc bằng nhiều thủ đoạn: tung biệt kích, gián điệp để phá hoại, điều tra tình hình, móc nối với các phần tử phản động, bất mãn đang nằm im ẩn mình, tung luận điệu xuyên tạc công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đấu tranh thống nhất đất nước của Nhân dân ta… Trước tình hình đó, Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng đã chấp hành nghiêm sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, tổ chức cho các cơ sở đảng học tập, quán triệt các nghị quyết của các cấp. Thông qua đó, tăng cường giáo dục ý thức cảnh giác với địch, ý thức đấu tranh thống nhất đất nước, trách nhiệm to lớn và ý nghĩa quyết định thắng lợi của miền Bắc xã hội chủ nghĩa đối với sự nghiệp đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam.

Thời gian này, một số cán bộ, đảng viên, công nhân viên của các cơ quan Dân Chính Đảng cấp tỉnh được điều động vào tăng cường cho miền Nam. Các cơ sở đảng trong Đảng bộ đã làm tốt việc phối hợp với chuyên môn, các tổ chức quần chúng có kế hoạch, biện pháp động viên tư tưởng, làm tốt chính sách hậu phương quân đội, để các đồng chí yên tâm, phấn khởi lên đường nhận nhiệm vụ cùng đồng bào miền Nam trực tiếp đấu tranh với kẻ thù, giành thắng lợi trên chiến trường.

Công an tỉnh đã cùng lực lượng quân đội, công an vũ trang, ngoài việc thường xuyên làm nòng cốt cho toàn dân thực hiện nhiệm vụ giữ vững quốc phòng – an ninh còn trực tiếp tham gia phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Lào, Nhân dân các xã biên giới phía Tây truy quét bọn phỉ, làm trong sạch địa bàn tham gia xây dựng tuyến phòng thủ biên giới và bờ biển chống lại các thủ đoạn của bọn biệt kích, gián điệp tìm cách thâm nhập địa bàn. Các vụ biệt kích, thổ phỉ xâm nhập vào huyện Kỳ Sơn tháng 11/1963, tháng 7/1964; vào đảo Ngư tháng 8/1964 được phát hiện kịp thời là nhờ tinh thần cảnh giác cao của quần chúng nhân dân và ý thức sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang tỉnh nhà.

Sau khi dựng lên “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, ngày 5/8/1964, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ ra lệnh cho lực lượng không quân mang bom, đạn đánh phá một số mục tiêu trọng điểm quân sự, kinh tế, văn hóa – xã hội ở miền Bắc nước ta. Tại Nghệ An, vào lúc 12 giờ 30 phút ngày 5/8/1964, đế quốc Mỹ cho nhiều tốp máy bay phản lực đánh phá thành phố Vinh, Kho xăng dầu Vinh – Bến Thủy và cảng Cửa Hội. Tại những địa điểm bị địch bắn phá, các lực lượng ba thứ quân đã bố trí sẵn sàng và đánh trả quyết liệt ngay từ trận đầu. Các đội tự vệ Nhà máy Điện Vinh, Nhà máy Xay, Trường Đại học Sư phạm Vinh chiếm lĩnh địa hình thuận lợi, dùng súng máy, súng trường kịp thời phối hợp với bộ đội pháo phòng không đánh trả địch. Khắp nơi trong thành phố Vinh và vùng phụ cận, dù trong hay ngoài công sự, hễ có súng trong tay là nhằm vào máy bay kẻ thù, chờ chúng lọt vào tầm bắn là sẵn sàng nhả đạn. Anh chị em tự vệ Nhà máy Gỗ, Kho xăng dầu, Công ty Xây dựng Vinh dù không có súng cũng không sợ hiểm nguy của lửa khói, đạn bom mà lao vào tiếp đạn, tải thương, củng cố công sự. Lực lượng công an, tự vệ phối hợp cùng Nhân dân tích cực, khẩn trương khắc phục hậu quả, bảo vệ an ninh trật tự địa bàn, tính mạng và tài sản của Nhà nước và Nhân dân.

Ngay những đợt đánh trả địch đầu tiên, quân và dân thành phố Vinh đã bắn rơi một máy bay phản lực của giặc. Đây là chiếc máy bay Mỹ bị bắn rơi đầu tiên trên miền Bắc. Với chiến công xuất sắc đó, ngày 7/8/1964, quân và dân tỉnh nhà được Bác Hồ biểu dương, khen ngợi và căn dặn, chỉ bảo những điều cần phải khắc phục trong những trận chiến đấu mới. Đây cũng là chiến công đầu xuất sắc của quân dân Nghệ An, mốc lịch sử mở màn cho cuộc chiến đấu và chiến thắng của quân dân miền Bắc nói chung, quân dân Nghệ An nói riêng trong chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân của đế quốc Mỹ.

Bước sang năm 1965, đế quốc Mỹ leo thang đánh phá ngày càng ác liệt miền Bắc, trong đó có Nghệ An nhưng với lực lượng đã được chuẩn bị tốt, các đơn vị chiến đấu của ta, từ biên giới đến hải đảo, từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi đã biến căm thù thành sức mạnh, luôn cảnh giác, kịp thời trừng trị đích đáng những hành động leo thang chiến tranh của chúng. Nét nổi bật của lực lượng chiến đấu Nghệ An là, càng đánh càng mạnh, càng giành thắng lợi lớn, số máy bay Mỹ bị bắn hạ trên đất Nghệ An tăng nhanh theo nhịp độ leo thang chiến tranh của chúng. Trong năm 1965, ta đã đánh trả hàng ngàn trận với không quân, hải quân Mỹ, bắn rơi 165 máy bay các loại của chúng, bắt sống nhiều giặc lái, bảo vệ được các công trình kinh tế trọng điểm, bảo đảm được giao thông vận tải, hạn chế được tổn thất tính mạng và tài sản của Nhân dân.

Song song với việc lãnh đạo, chỉ đạo, Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng đã thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng lực lượng chiến đấu tại chỗ và chi viện các chiến trường theo chủ trương chung của Tỉnh ủy. Đồng thời, phối hợp với thủ trưởng chuyên môn, đảng đoàn, ban cán sự các ngành tham mưu cho Ủy ban hành chính tỉnh xây dựng và chỉ đạo thực hiện đề án phòng không nhân dân. Hàng vạn hầm trú ẩn, hàng ngàn kilômét hào phòng không được các cấp, các ngành và Nhân dân xây dựng trong thời gian này. Đến cuối quý III năm 1965, các cơ quan của Đảng, chính quyền, đoàn thể cấp tỉnh, các đơn vị của Trung ương ở Vinh đã được sơ tán về các huyện: Hưng Nguyên, Nam Đàn, Thanh Chương,… Các nhà máy xí nghiệp ở vùng trọng điểm cũng hoàn thành cơ bản việc di chuyển máy móc, thiết bị kỹ thuật về các địa điểm an toàn để sớm ổn định đi vào sản xuất. Việc di chuyển khẩn trương, chu đáo cả người, tài liệu, thiết bị máy móc, vượt qua bom đạn Mỹ, tới địa điểm mới an toàn, sớm ổn định đi vào hoạt động trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt, khó khăn thiếu thốn đủ bề là một thành tích to lớn của cán bộ, đảng viên, công nhân viên các cơ quan Dân Chính Đảng cấp tỉnh.

Thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965), nhằm bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật chủ nghĩa xã hội, đồng thời tiếp tục hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất mới. Kế hoạch này trên thực tế chỉ được thực hiện đến hết năm 1964. Trong 4 năm (1961 – 1964), giá trị sản lượng công nghiệp Nghệ An tăng. Mức độ tăng không cao nhưng công nghiệp bắt đầu phát triển về chất. Trong khi ưu tiên phát triển công nghiệp, nông nghiệp vẫn được coi là mặt trận hàng đầu, là cơ sở để phát triển công nghiệp. Hợp tác xã và nông trường quốc doanh được củng cố. Những kết quả đạt được trong 5 năm thực hiện Kế hoạch nhà nước lần thứ nhất là rất đáng tự hào, trong đó có phần đóng góp xứng đáng của cán bộ, đảng viên, công nhân viên cơ quan Dân Chính Đảng cấp tỉnh.

Chặng đường hơn 10 năm (1954 – 1965) kể từ khi thành lập Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng tuy không dài và có nhiều biến động nhưng đã để lại những dấu ấn sâu sắc. Đây là thời kỳ đi vào xây dựng Đảng bộ trên cơ sở kế thừa những kinh nghiệm thành công và chưa thành công của các tổ chức tiền thân là liên chi đã hình thành và hoạt động trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Là thời kỳ, với những tìm tòi, thể nghiệm mô hình cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động phù hợp với những đặc điểm, đặc thù của tổ chức Đảng ở các cơ quan trong hệ thống chính trị cấp tỉnh, các cơ quan chuyên môn và các tổ chức kinh tế của tỉnh. Là thời kỳ Đảng bộ không ngừng vươn lên tự củng cố và khẳng định mình, không chỉ đơn thuần làm công tác đảng vụ, mà thực hiện có kết quả nhiều mặt, góp phần tích cực cùng Đảng bộ, Nhân dân tỉnh nhà tập trung giải quyết những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp chưa có tiền lệ trong lịch sử. Đó cũng là thời kỳ khắc phục hậu quả chiến tranh và thiên tai, tiến hành cải cách ruộng đất, cải tạo xã hội chủ nghĩa, thực hiện nghĩa vụ hậu phương đối với chiến trường miền Nam, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội trên quê hương Nghệ An, tạo tiền đề về vật chất, tinh thần để Nhân dân tỉnh nhà chuẩn bị bước vào một thời kỳ gay go, ác liệt gấp bội, đòi hỏi phải có những nỗ lực vượt bậc để đảm đương trách nhiệm vừa là tiền tuyến của hậu phương miền Bắc, vừa là hậu phương của tiền tuyến miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vô cùng gian khổ nhưng anh hùng và vẻ vang của dân tộc.

III.   LÃNH ĐẠO BẢO VỆ HẬU PHƯƠNG VÀ CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ NHẤT CỦA ĐẾ QUỐC MỸ (1965 – 1968)

Bước sang năm 1966, do bị thất bại nặng nề về chính trị, quân sự trên hai miền Nam – Bắc, đế quốc Mỹ đã liều lĩnh dùng không quân, hải quân ném bom, bắn phá mở rộng ra hầu hết các tỉnh miền Bắc nước ta.

Nghệ An là tỉnh có vị trí chiến lược quan trọng, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam, bởi vậy giặc Mỹ đã dùng không quân, hải quân đánh phá ngày càng quyết liệt về cả quy mô và mức độ, với những thủ đoạn mới thâm độc hơn. Năm 1967, chúng dùng không quân, hải quân đánh phá các mục tiêu trên đất Nghệ An gấp 10 lần so với năm 1965.

Lúc này, Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh Nghệ An thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng ở các cơ quan đầu ngành cấp tỉnh trong điều kiện địch đánh phá ngày càng ác liệt, bên cạnh thuận lợi là có đường lối kháng chiến đúng đắn của Đảng, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, còn có những khó khăn: nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, chi bộ cơ sở khác nhau, các đảng bộ cơ sở thuộc đơn vị hành chính sự nghiệp có trách nhiệm lãnh đạo chính trị, tư tưởng, một số đảng bộ, chi bộ cơ sở khác có trách nhiệm lãnh đạo toàn diện, hoặc trong một đảng bộ cơ sở hành chính sự nghiệp lại có chi bộ có trách nhiệm lãnh đạo toàn diện. Mối quan hệ giữa các đảng bộ, chi bộ cơ sở là bình đẳng nhưng cương vị chuyên môn, quyền hạn cao thấp khác nhau. Đảng bộ có 16 ty, dưới các ty là 14 công ty; có 11 cơ quan có quyền hạn cao hơn hoặc ngang ty,… là nơi tập hợp nhiều cán bộ, đảng viên từ lãnh đạo, chỉ đạo toàn tỉnh, toàn ngành đến đảng viên là nhân viên phục vụ. Có đảng viên trình độ chuyên môn là bác sỹ, kỹ sư, có đảng viên trình độ văn hóa mới ở cấp một và chưa qua đào tạo một lớp chuyên môn, kỹ thuật nào. Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng với trọng trách chăm lo công tác xây dựng Đảng dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, không có tổ chức chuyên môn, tổ chức quần chúng (trừ Đoàn Thanh niên lao động) ngang cấp như ở cấp huyện hoặc các công, nông trường, xí nghiệp; ở mỗi đơn vị có hai hệ thống lãnh đạo: Đảng đoàn, ban cán sự đảng chịu trách nhiệm trước Tỉnh ủy lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ trong toàn ngành, đảng ủy, chi ủy cơ sở dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng ủy Cơ quan Dân Chính Đảng chuyên trách làm công tác xây dựng Đảng trong phạm vi cơ quan. Cán bộ lãnh đạo của Đảng ủy, Chi ủy cơ sở đều là kiêm chức.

Thời gian này, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy chuyển mọi hoạt động của Nhân dân tỉnh nhà sang thời chiến, cơ quan các ban, ngành đóng tập trung ở thành phố nay sơ tán về nông thôn và phải nhiều lần dời chuyển vị trí sơ tán, các cơ sở đảng đóng rải hầu khắp các huyện trong tỉnh, một số đơn vị hoạt động ở vùng biên giới, hải đảo và cả ngoại tỉnh. Trong đó, cơ quan Đảng ủy Cơ quan Dân Chính Đảng được sơ tán về xã Quang Sơn, huyện Đô Lương. Số lượng đảng viên, cán bộ, công nhân viên ở các cơ quan Dân Chính Đảng tăng nhanh. Địch đánh phá ác liệt, công tác đột xuất diễn ra liên tục làm cho các ban, ngành phải luôn điều chỉnh kế hoạch công tác cho phù hợp với tình hình. Mặt khác, thiên tai thường xuyên đe dọa, hạn hán, lụt, bão diễn ra liên miên, mùa màng thất bát, đời sống cán bộ, công nhân viên và Nhân dân thiếu thốn, khó khăn. Tư tưởng một bộ phận cán bộ, đảng viên, công nhân viên có nhiều diễn biến phức tạp, nhất là đối với cán bộ, công nhân viên các đơn vị công tác ở những nơi trọng điểm, địch thường xuyên tập trung lực lượng đánh phá ác liệt như các điểm nút giao thông, bến phà, kho, trạm,… Tại các trọng điểm này, cán bộ, đảng viên, công nhân viên đối phó với bom đạn của địch để bảo vệ tính mạng của mình và tài sản nhà nước diễn ra căng thẳng từng giờ, từng ngày và phải kéo dài triền miên hàng năm. Để hoàn thành nhiệm vụ được giao, ý chí của cán bộ, công nhân viên công tác tại đây phải thực sự sẵn sàng “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

Nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng, trước hết là Ban Chấp hành Đảng bộ trong giai đoạn này là phải lãnh đạo, chỉ đạo các cơ sở đảng trong toàn Đảng bộ làm tốt công tác chính trị tư tưởng, động viên mọi cán bộ, đảng viên, công nhân viên các cơ quan Dân Chính Đảng thực hiện công tác chuyên môn đạt hiệu quả, chất lượng cao nhất theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần cùng quân, dân cả tỉnh giành thắng lợi trong nhiệm vụ vừa sản xuất vừa chiến đấu, đồng thời bảo đảm công tác củng cố tổ chức Đảng vững mạnh, quản lý đảng viên và làm tốt công tác phát triển đảng viên mới, tăng cường lực lượng của Đảng.

Nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy, công tác của các đảng đoàn, ban cán sự đảng, chuyên môn của các ban, ngành cấp tỉnh, sự cưu mang, giúp đỡ của Nhân dân các địa phương trong tỉnh, Ban Chấp hành Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng đã vươn lên khắc phục mọi khó khăn do địch họa, thiên tai gây ra, chủ động và ráo riết chỉ đạo các tổ chức cơ sở đảng thực hiện một cách quyết liệt việc phổ biến những chỉ thị, nghị quyết của Đảng các cấp, chỉ tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của Nhà nước, của tỉnh; nhiệm vụ chuyên môn của các ban, ngành tới hầu hết cán bộ, đảng viên, công nhân viên trong toàn Đảng bộ kịp thời, đầy đủ. Định kỳ hằng tháng, phổ biến những thông tin thời sự về thành tích đánh giặc, sản xuất, công tác trong ngành, trong tỉnh và cả nước làm cho cán bộ, đảng viên, công nhân viên trong Đảng bộ quán triệt ngày càng sâu sắc các quan điểm, đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng, nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, lời kêu gọi “Đồng bào, chiến sĩ cả nước kiên trì và quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, ngày 17/7/1966 của Bác Hồ. Bằng nhiều cách, Đảng bộ đã giúp cán bộ, đảng viên, công nhân viên hiểu rõ bản chất và những tội ác tày trời của đế quốc Mỹ đối với cả nước nói chung, Nhân dân Nghệ An nói riêng. Phát động mọi người nêu cao chủ nghĩa yêu nước, lòng căm thù giặc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai sâu sắc. Động viên cán bộ, công nhân viên giữ vững và phát huy truyền thống đoàn kết, đấu tranh cách mạng của quê hương Xô viết Nghệ Tĩnh, củng cố niềm tin vào sự tất thắng của công cuộc chống Mỹ, cứu nước do Đảng lãnh đạo, Nhân dân ta thực hiện.

Công tác giáo dục tư tưởng chính trị của Đảng bộ được kết hợp chặt chẽ với công tác tổ chức. Ngày 23/1/1967, Tỉnh ủy có Quyết định số 29-NQ/TU, về việc tách Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng thành 5 đảng bộ khối như sau(10):

  1. Đảng bộ Khối Dân Chính Đảng
  2. Đảng bộ Khối Công nghiệp
  3. Đảng bộ Khối Nông nghiệp
  4. Đảng bộ Khối Tài chính Thương nghiệp
  5. Đảng bộ Khối Văn xã

Chủ trương của Tỉnh ủy tách Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng thành 5 đảng bộ khối lúc này là đúng đắn, kịp thời, hoàn toàn phù hợp với tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 (3/1965) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về chuyển hướng công tác tư tưởng, tổ chức cho phù hợp với tình hình đất nước có chiến tranh.

Sau khi có quyết định thành lập các đảng bộ khối, Tỉnh ủy chỉ đạo sát công tác chuẩn bị đại hội để kiện toàn sự lãnh đạo của các khối. Đồng thời với công tác chuẩn bị đại hội đảng bộ khối, ban chấp hành lâm thời các khối cũng tích cực chỉ đạo các cơ sở đảng đại hội kiện toàn đảng bộ, chi bộ cơ sở. Nội dung đại hội cơ sở đảng tập trung đánh giá, bổ sung kế hoạch thực hiện cuộc vận động xây dựng cơ sở đảng, đảng viên theo yêu cầu “4 tốt” trong 2 năm (1967 – 1968), được Đảng bộ Khối Dân Chính Đảng cụ thể hóa phù hợp với hoạt động của các loại hình cơ sở đảng.

Song song với việc cụ thể hóa yêu cầu “4 tốt” cho từng loại hình chi bộ, để cuộc vận động xây dựng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên “4 tốt” đạt kết quả cao, các khối còn chỉ đạo các cơ sở đảng quán triệt và thực hiện đúng phương châm cuộc vận động của Trung ương Đảng đề ra là:

“- Thông qua đấu tranh thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng trong từng thời gian (qua việc thực hiện kế hoạch sản xuất, công tác của cuộc vận động lớn, qua các phong trào thi đua của quần chúng, qua chiến đấu,…) mà tiến hành xây dựng chi bộ, đảng bộ; đồng thời, coi trọng việc tổ chức học tập, giáo dục nâng cao trình độ về mọi mặt của đảng viên mà cải tiến sự lãnh đạo của chi bộ, đảng bộ.

– Phải đặt lên hàng đầu yêu cầu xây dựng đảng bộ, chi bộ về chính trị, tư tưởng, đồng thời coi trọng xây dựng, củng cố tổ chức, củng cố vai trò hạt nhân lãnh đạo, nâng cao trình độ văn hóa, kỹ thuật, nghiệp vụ cho đảng viên.

– Coi trọng việc bồi dưỡng, phát huy các điển hình tốt (toàn diện và từng mặt), đồng thời phải chỉ đạo, giúp đỡ đảng viên, chi bộ kém”(11).

Công tác chỉ đạo các cơ sở đảng đại hội và việc chuẩn bị đại hội các đảng bộ khối được tiến hành nhịp nhàng nên hầu hết các đảng bộ khối đến cuối quý I năm 1967 đã hoàn thành kế hoạch chuẩn bị đại hội đúng quy định với chỉ đạo của Tỉnh ủy.

Từ ngày 3 đến ngày 5/5/1967, Đại hội đại biểu Đảng bộ Khối Dân Chính Đảng lần thứ VI được tổ chức tại hội trường xã Quang Sơn, huyện Đô Lương. Đại hội đã tập trung đánh giá ưu, khuyết điểm của Đảng bộ trong nhiệm kỳ 1963 – 1967. Đồng thời, quyết định phương hướng, nhiệm vụ của nhiệm kỳ tới là: “Kiên định lập trường giai cấp công nhân, bồi dưỡng lập trường cộng sản chủ nghĩa, tinh thần triệt để cách mạng, bồi dưỡng ý chí chiến đấu cho độc lập, tự do của dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xả thân cứu nước, nâng cao cảnh giác cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật, xây dựng tư tưởng tiến công liên tục, tự lực tự cường, khẩn trương, dũng cảm, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược; khắc phục tư tưởng hữu khuynh và mọi biểu hiện tư tưởng chủ nghĩa cá nhân, cầu an, ngại khó, ngại phấn đấu gian khổ, thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, tính toán cá nhân, suy bì đãi ngộ; phát huy dân chủ nội bộ, đẩy mạnh phê bình và tự phê bình, tăng cường đoàn kết nhất trí; ra sức cải tiến tổ chức, cải tiến tác phong, lề lối làm việc, nâng cao trình độ quản lý kinh tế, tài chính, nghiệp vụ chuyên môn, chống quan liêu mệnh lệnh, tư lợi; quyết tâm xây dựng chi bộ “4 tốt”, tích cực giành thắng lợi cao nhất trên mặt trận sản xuất, chiến đấu, đời sống và mọi công tác khác góp phần hoàn thành và hoàn thành vượt mức Kế hoạch nhà nước năm 1968, góp phần xây dựng Nghệ An thành tỉnh gương mẫu về mọi mặt,…”(12).

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 13 đồng chí. Tại phiên họp đầu tiên, Ban Chấp hành bầu đồng chí Võ Trọng Cư giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy.

Đại hội cũng đã quyết định phát động đợt thi đua ngắn từ ngày 5/5 đến ngày 2/9/1967, với các nội dung:

– Hoàn thành và hoàn thành vượt mức Kế hoạch nhà nước quý II năm 1967 và chuẩn bị tốt để thực hiện Kế hoạch sản xuất 6 tháng cuối năm 1967, kết hợp thi đua cải tiến tổ chức, lề lối làm việc, tăng năng suất lao động, tiết kiệm, bảo đảm giờ công, ngày công cao trong cơ quan.

 

 

– Đẩy mạnh công tác sản xuất, tiết kiệm trong cơ quan để cải thiện sinh hoạt, chăm lo đời sống cho công nhân viên.

– Triển khai tốt công tác phòng không nhân dân, quân sự hóa cơ quan, làm tốt công tác dân quân tự vệ, chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng tổ chức để đối phó với mọi tình huống có thể xảy ra.

– Phát động phong trào vệ sinh phòng bệnh, gây dựng phong trào văn hóa, văn nghệ vui khỏe, phấn khởi lành mạnh, tự giác hoàn thành tốt mọi công việc”(13).

Những quyết sách lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng Đảng của Đại hội đã bổ sung nguồn sinh lực mới cho Đảng bộ. Phong trào thi đua vượt khó, phấn đấu hoàn thành Kế hoạch nhà nước năm 1967 của cán bộ, đảng viên, công nhân viên diễn ra sôi nổi. Nhờ đó, những tháng cuối năm 1967 và quý I năm 1968, mặc dù địch tăng cường đánh phá nhưng hầu hết các cơ quan đều vượt lên hoàn thành Kế hoạch nhà nước.

Những tháng cuối năm 1968, trên địa bàn Nghệ An, máy bay, tàu chiến Mỹ đã dùng bom đạn biến nhiều trọng điểm giao thông thành những “tọa độ lửa”. Nhiều xóm thôn bị bom đạn của chúng đốt trụi như các xứ đạo: Vạn Lộc, Quy Chính thuộc 2 xã Nam Lộc, Vân Diên (Nam Đàn). Thành phố Vinh bị tàn phá chỉ còn là đống gạch vụn, nhiều công trình kinh tế quan trọng như: cầu cống, đập nước, nhà thương, trường học,… bị phá hoại. Vào những thời điểm địch đánh phá cực kỳ ác liệt đó, chúng đã làm cho không ít đồng bào, chiến sĩ tổn thất về tính mạng, trong đó có bản thân và gia đình một số cán bộ, đảng viên, công nhân viên các cơ quan Khối Dân Chính Đảng.

Đối phó với thủ đoạn ném bom “hạn chế” của đế quốc Mỹ, Ban Chấp hành Đảng bộ Khối Dân Chính Đảng đã chủ trương chỉ đạo

(13) Văn kiện Đại hội Đảng bộ Khối Dân Chính Đảng lần thứ VI, Hồ sơ số 423, lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy. Nghệ An các cơ sở đảng: coi công tác giáo dục chính trị tư tưởng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, nhằm kịp thời hướng dẫn, cổ vũ cán bộ, đảng viên, công nhân viên các cơ quan Khối Dân Chính Đảng phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, luôn vững vàng trên tư thế của người chiến thắng, đoàn kết một lòng, vươn lên khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống.

Thực hiện chủ trương trên, ngoài việc thường xuyên đẩy mạnh phổ biến đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trước mắt tập trung quán triệt phương hướng công tác xây dựng Đảng của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Khối lần thứ VI (5/1967), Nghị quyết Ban Thường vụ Tỉnh ủy khóa VII (5/1968) về nhiệm vụ cấp bách trước mắt, còn luôn coi trọng việc tổ chức học tập các điển hình tiên tiến, trong chiến tranh ác liệt vẫn ngoan cường bám đất, bám dân, bám nhiệm vụ được giao, nêu cao cảnh giác cách mạng, tích cực xây dựng, củng cố lực lượng, chủ động phòng tránh, đánh giặc, đẩy mạnh sản xuất như: cán bộ, Nhân dân xã Hưng Dũng; cán bộ, công nhân viên Cửa hàng ăn uống Ngã sáu (thành phố Vinh); tập thể cán bộ, công nhân viên Công ty Xăng dầu Nghệ Tĩnh,… Cùng với đó là học tập gương chiến đấu hy sinh lẫm liệt trước quân thù của Anh hùng, liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi qua tác phẩm “Sống như anh”; người phụ nữ dũng cảm trong chiến đấu diệt thù, đảm đang chăm lo việc nhà Nguyễn Thị Út qua tác phẩm “Người mẹ cầm súng”;… Công tác giáo dục chính trị tư tưởng được các tổ chức cơ sở đảng tiến hành tích cực, thường xuyên với hình thức phong phú, từ thấp đến cao, cho tất cả các đối tượng, nhất là những người làm nhiệm vụ trực tiếp sản xuất, chiến đấu, phục vụ chiến đấu ở các trọng điểm địch thường đánh phá.

Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng của các tổ chức cơ sở đảng trong toàn Đảng bộ Khối Dân Chính Đảng đã đóng vai trò trọng yếu, giúp cho hầu hết cán bộ, đảng viên, công nhân viên các cơ quan từng bước nhận thức rõ bản chất cách mạng, khoa học của đường lối kháng chiến của Đảng, từ đó nhận thức sâu sắc về thủ đoạn mới thâm độc của kẻ thù, ra sức bảo vệ và thực hiện, hướng dẫn thống nhất hành động, góp sức, góp trí cùng quân dân cả tỉnh từng bước đập tan âm mưu xảo quyệt của chúng. Đồng thời, phê phán, sửa chữa những biểu hiện sa sút ý chí chiến đấu, sợ gian khổ hy sinh, thoái thác nhiệm vụ trong tổ chức Đảng và ngoài quần chúng. Duy trì, đẩy mạnh việc thực hiện cuộc vận động xây dựng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên “4 tốt”, phong trào thi đua “Sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi” trong tất cả các cơ quan, ban, ngành; phong trào “Ba sẵn sàng” trong thanh niên, “Ba đảm đang” trong phụ nữ,… Mặc dù chiến tranh xảy ra ác liệt, nhưng cán bộ, đảng viên toàn Đảng bộ vẫn luôn giữ vững vai trò gương mẫu, sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ trong mọi điều kiện khi cơ quan yêu cầu.

Thời gian này, việc nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng, tinh thần trách nhiệm, chất lượng, hiệu quả công tác chuyên môn những năm 1966 – 1968 cho cán bộ, đảng viên có những tiến bộ mới, từ cơ quan đảng, chính quyền, ty, ban, ngành cấp tỉnh và các cơ quan đoàn thể nhân dân đến các cơ quan đơn vị sự nghiệp; từ cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo, các chuyên viên nghiên cứu trên các lĩnh vực đến đội ngũ công nhân viên phục vụ như cấp dưỡng, văn thư, đánh máy.

Điểm nổi bật của kết quả thực hiện nhiệm vụ chuyên môn là: Đảng bộ Khối đã phối hợp với đảng đoàn, cán sự chuyên môn các ban, ngành huy động được công sức, trí tuệ của cán bộ, đảng viên, công nhân viên các cơ quan nâng cao chất lượng công tác tham mưu, góp phần đắc lực giúp Tỉnh ủy, Ủy ban hành chính tỉnh sớm kết luận đúng tình hình mọi mặt của tỉnh nhà. Đồng thời, xây dựng, chỉ đạo thực hiện đề án đẩy mạnh chuyển hướng kinh tế và mọi mặt đời sống Nhân dân sang thời chiến, theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11, 12 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III); ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương (khóa III) với Đảng bộ tỉnh Nghệ An (6/1965): Quyết tâm tiếp tục xây dựng Nghệ An theo hướng xã hội chủ nghĩa, kết hợp chặt chẽ hơn nữa xây dựng kinh tế với củng cố và tăng cường quốc phòng; phải vừa sản xuất, vừa chiến đấu, kiên quyết đánh bại chiến tranh phá hoại của không quân và hải quân Mỹ, bảo vệ vững chắc Nghệ An, bảo vệ miền Bắc, đồng thời ra sức tăng cường lực lượng cho tiền tuyến, cùng với miền Nam và cả nước đánh thắng chiến tranh xâm lược của Mỹ và tay sai, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Hầu hết các ban, ngành tiếp tục tham mưu bổ sung cho Tỉnh ủy, Ủy ban hành chính tỉnh quyết định kế hoạch phát triển ngành, kế hoạch thực hiện các cuộc vận động cách mạng lớn trong toàn tỉnh phù hợp với thời chiến như: tăng cường công tác phòng tránh đánh giặc; xây dựng và bảo vệ cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp, công nghiệp địa phương đảm bảo, hậu cần tại chỗ; phương châm, biện pháp đảm bảo giao thông, vận tải, chi viện chiến trường cung cấp nội địa phục vụ sản xuất, chiến đấu và đời sống Nhân dân; các chính sách huy động, bồi dưỡng sức dân,…

Công tác tổ chức chỉ đạo được cải tiến, bám sát nhiệm vụ chính trị, cơ sở. Trong chỉ đạo được phân công cụ thể cả về nội dung, địa bàn và thời gian nên trách nhiệm cán bộ chỉ đạo được đề cao, đồng thời cơ quan quản lý được cán bộ. Các cơ quan đã chú ý tăng cường chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết, kế hoạch được giao ở cơ sở, đẩy mạnh các cuộc vận động, các phong trào thi đua, phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch được giao. Coi trọng chỉ đạo sơ kết, tổng kết thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của cơ sở, chăm lo bồi dưỡng điển hình từng mặt và toàn diện, tích cực nhân rộng điển hình, hướng về cơ sở, phục vụ cơ sở tốt hay xấu trở thành một trong những tiêu chí đánh giá phẩm chất cán bộ chỉ đạo của Đảng bộ Khối Dân Chính Đảng tỉnh Nghệ An. Bất chấp những khó khăn của cuộc chiến tranh phá hoại do đế quốc Mỹ gây ra, những hoạt động của các tổ chức đảng, của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công nhân viên trong Đảng bộ Khối Dân Chính Đảng vẫn giữ được ổn định và đã góp phần quan trọng vào thành tích của Nhân dân tỉnh nhà trong thực hiện nhiệm vụ vừa sản xuất, vừa chiến đấu.

Về kinh tế, trước hết là sản xuất nông nghiệp, trong những năm 1966 – 1968, nhờ củng cố và cải tiến quản lý hợp tác xã nông nghiệp, nông cụ, trang bị thêm cơ sở vật chất kỹ thuật, tập trung đầu tư vốn, phát động rộng khắp phong trào thi đua làm thủy lợi, cải tiến nông cụ, cải tạo giống, chuyển vụ, tăng vụ,… mà sản phẩm lương thực, thực phẩm làm ra cơ bản đủ cung cấp cho Nhân dân và bộ đội. Trên cả hai mặt sản xuất và chiến đấu, hợp tác xã nông nghiệp vừa đảm bảo lương thực cho tỉnh, vừa tổ chức tốt việc phòng tránh, chiến đấu đánh giặc tại chỗ bảo vệ xóm làng, đồng thời động viên thanh niên cả nam và nữ tòng quân đánh giặc, phục vụ chiến trường. Lúc này, 2.100 hợp tác xã nông nghiệp ở Nghệ An thực sự trở thành pháo đài kháng chiến xây dựng, bảo vệ quê hương.

Về công nghiệp, dù phải di chuyển, sơ tán một số nhà máy lớn như Nhà máy điện, Nhà máy đường, Nhà máy cơ khí,… đến những địa điểm an toàn, tuy vậy nền công nghiệp địa phương vẫn ổn định, hàng loạt máy công nghiệp và chế biến nông sản cũng như công cụ cải tiến cầm tay ra đời. So với trước chiến tranh, lúc này, sản xuất than tăng gấp 3 lần, thuốc chữa bệnh tăng gấp 5 lần.

Cùng với kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, các ngành khác cũng có những bước tiến quan trọng, ngành thương nghiệp, tài chính, ngân hàng, y tế,… đã chuyển hướng mau lẹ phương thức phục vụ người sản xuất và tiêu dùng theo từng khu vực công nhân, viên chức hoặc khu vực hợp tác xã.

Công tác đảm bảo giao thông, vận tải chi viện chiến trường, phục vụ nội địa sản xuất, chiến đấu là nhiệm vụ trung tâm số một của Đảng bộ và Nhân dân Nghệ An. Đội ngũ chuyên nghiệp được tăng cường lực lượng gấp 5 lần so với thời bình. Ngoài lực lượng chuyên nghiệp làm chủ lực còn có lực lượng hùng hậu của Nhân dân các địa phương tham gia. Với phương châm phá thế độc tuyến, độc điểm, với quyết tâm “địch phá một, ta làm mười”, “xe chưa qua, nhà không tiếc”, “địch phá, ta sửa ta đi”, các lực lượng giao thông, thanh niên xung phong và Nhân dân tỉnh nhà đã nhanh chóng tạo nên hệ thống đường tránh, đường xế, đường nghi binh, các điểm vượt sông mới để tránh ách tắc. Lúc này, phương tiện vận tải vào các thời kỳ đầu chiến tranh rất mỏng, lại bị địch đánh phá hư hỏng một số lượng đáng kể. Khắc phục tình trạng đó, tỉnh một mặt đề nghị các ngành trung ương giúp đỡ, bổ sung; mặt khác, với quan điểm “tự lực cánh sinh là chính”, tỉnh ưu tiên tiền vốn, kỹ thuật và vật liệu cho các địa phương sản xuất phương tiện. Mặc dù không quân, hải quân Mỹ ném bom bắn phá, ngăn chặn giao thông ngày càng ác liệt, nhất là thời kỳ ném bom “hạn chế”, nhưng sức mạnh “chiến tranh nhân dân”, “giao thông nhân dân”, “vận tải nhân dân” là vô địch. Bất chấp ngăn chặn của bom đạn kẻ thù, Nhân dân Nghệ An cùng toàn miền Bắc đã làm tốt công tác đảm bảo giao thông vận tải, chi viện kịp thời và đầy đủ sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam trong những năm 1966 – 1968.

Về công tác xây dựng Đảng, trong 3 năm (1966 – 1968), Đảng ủy Khối đã nắm vững nội dung xây dựng đảng bộ, chi bộ, tổ đảng theo yêu cầu “4 tốt” để phấn đấu, từng bước đưa hoạt động của tổ chức đảng vào nền nếp chặt chẽ hơn. Nhờ một số kinh nghiệm thực tế qua việc thường xuyên chỉ đạo sơ kết, tổng kết công tác xây dựng tổ chức Đảng theo yêu cầu “4 tốt” nên chất lượng Đảng bộ đã được nâng lên một bước đáng kể. Các cơ sở đảng nhìn chung giữ vững chế độ đều kỳ, nội dung sinh hoạt bám sát thực tiễn, đã giúp đảng viên tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về tư tưởng, nâng cao được trách nhiệm, năng lực làm việc. Các đồng chí phụ trách chuyên môn các cơ quan trong Đảng bộ ngày càng quan tâm đến công tác chi bộ. Quan hệ giữa cấp ủy đảng, chuyên môn, công đoàn ngày càng chặt chẽ hơn.

Song song với việc củng cố, xây dựng tổ chức đảng, các đoàn thể quần chúng cũng có nhiều tiến bộ về mặt lãnh đạo, chỉ đạo, tư tưởng và tổ chức. Đoàn Thanh niên lao động đã quan tâm nhiều về mặt giáo dục chính trị tư tưởng. Các tổ chức chi đoàn, phân đoàn được các cấp uỷ chăm lo chỉ đạo củng cố. Các tổ chức đoàn, đoàn viên trong Đảng bộ đều vươn lên khẳng định vai trò xung kích của mình trong thực hiện hoàn thành kế hoạch chuyên môn được giao. Đặc biệt, các tổ chức đoàn và đoàn viên của Đảng bộ có nhiều cố gắng lớn trong xây dựng phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao ở các cơ quan. Nhìn chung, đội ngũ đoàn viên thanh niên của Đảng bộ có phẩm chất đạo đức tốt.

Tổ chức công đoàn và phong trào công nhân, viên chức bước đầu đã có những cố gắng trong xây dựng tổ chức theo đúng chức năng. Điểm nổi bật là, công đoàn đã quan tâm đến lãnh đạo việc cải thiện sinh hoạt cho đoàn viên. Tham gia quản lý, phân phối hàng tiêu dùng, bình xét trợ cấp khó khăn, cũng như tương trợ, giúp đỡ nhau về đời sống vật chất, tinh thần ở nơi sơ tán,… Công đoàn các cơ quan đã góp phần xứng đáng của mình trong việc tổ chức đời sống cho cán bộ, công nhân viên.

Trong quá trình sơ tán lên địa bàn xã Quang Sơn, huyện Đô Lương, cơ quan Đảng bộ Khối Dân Chính Đảng đã thiết thực giúp đỡ địa phương trong việc củng cố xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, lãnh đạo sản xuất, cũng như đóng góp sức người vào việc làm mùa, làm chiêm, trồng cây, làm thuỷ lợi,…

Trên lĩnh vực chiến đấu, toàn tỉnh đã đóng góp 30.551 thanh niên nam nữ vào lực lượng quân đội, thanh niên xung phong, trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên các chiến trường cả nước. Tỉnh thường xuyên chăm lo xây dựng lực lượng cả bộ đội địa phương và dân quân du kích, cả con người và trang bị vũ khí kỹ thuật, trình độ tổ chức độc lập chiến đấu cũng như hợp đồng chiến đấu. Quân dân Nghệ An đã tổ chức đánh trả địch hàng trăm trận, hàng chục lần tiêu diệt hoặc bắt gọn các toán gián điệp Mỹ thâm nhập nội địa, 4 lần bắn chìm, bắn cháy tàu chiến, tàu biệt kích, bắn rơi hơn 438 máy bay Mỹ. Riêng lực lượng dân quân tự vệ Nghệ An đã bắn rơi 53 máy bay Mỹ.

Những thành tích nổi bật nói trên của tỉnh nhà, trong đó có phần đóng góp của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công nhân viên thuộc Đảng bộ Khối Dân Chính Đảng đã góp phần cùng cả nước đánh bại chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân, hải quân Mỹ, buộc đế quốc Mỹ phải tuyên bố “ngừng ném bom miền Bắc vô điều kiện” vào ngày 1/11/1968.

Những thành tích đạt được trong những năm 1966 – 1968 thể hiện Đảng bộ Khối Dân Chính Đảng đã trưởng thành một bước dài về cả chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đại bộ phận các tổ chức cơ sở đảng trong các lĩnh vực vẫn giữ vững và phát huy tinh thần ngoan cường và dũng cảm trong sản xuất và chiến đấu. Tổ chức Đảng và các tổ chức quần chúng được củng cố. Lề lối lãnh đạo, chỉ đạo tác phong công tác của cán bộ, đảng viên có nhiều tiến bộ, nhất là đi sát cơ sở. Những thành tích đó làm cho Đảng bộ đoàn kết, nhất trí, vững chắc thêm, mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng được tăng cường, sự nhất trí về chính trị, tư tưởng trong Đảng bộ ngày càng được nâng cao.

IV. LÃNH ĐẠO KHÔI PHỤC, HÀN GẮN VẾT THƯƠNG CHIẾN TRANH VÀ CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ HAI CỦA ĐẾ QUỐC MỸ (1969 – 1972)

Sau khi đế quốc Mỹ buộc phải ngừng ném bom miền Bắc vô điều kiện, miền Bắc nước ta tạm thời có hòa bình, miền Nam tiếp tục chiến đấu đánh bại âm mưu chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ. Để góp phần tăng cường sức mạnh lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ khôi phục kinh tế, văn hóa, làm tròn nghĩa vụ hậu phương đối với tiền tuyến lớn miền Nam trong điều kiện có hòa bình, đầu năm 1969, Tỉnh ủy Nghệ An chủ trương sáp nhập 5 đảng bộ khối: Công nghiệp, Nông nghiệp, Tài chính Thương nghiệp, Văn xã, Dân Chính Đảng thành Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng.

Ngày 1/3/1969, Tỉnh ủy chỉ định Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng gồm các đồng chí: Chế Đình Hồng, Hồ Xuân Phúc, Trần Văn Đờn, Nguyễn Văn Bỉnh, Lê Nguyên Cát. Đồng chí Chế Đình Hồng được chỉ định làm Bí thư Đảng ủy(14). Tỉnh ủy quyết định cơ quan chuyên trách của Đảng bộ gồm có 8 biên chế và 1 cấp dưỡng, cho xây dựng hội trường riêng để hội họp và lắp đặt máy điện thoại để liên lạc (lấy số máy 139 để ghi nhớ ngày có quyết định của Tỉnh ủy hợp nhất 5 khối). Sau khi có quyết định thành lập Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng, Ban Chấp hành lâm thời một mặt phải chỉ đạo các cơ sở đảng lãnh đạo đơn vị, ngành hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn theo kế hoạch, mặt khác tích cực chuẩn bị mọi mặt để triệu tập đại hội đại biểu Đảng bộ.

Dưới sự chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy, công tác chuẩn bị Đại hội Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng được Ban Chấp hành lâm thời chuẩn bị tích cực và đúng quy trình. Từ nửa cuối tháng 4/1969, Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ đã chỉ đạo các cơ sở đảng lần lượt tiến hành đại hội, tổng kết thực hiện cuộc vận động xây dựng cơ sở đảng “4 tốt”, kiện toàn cấp ủy; dân chủ lấy ý kiến góp ý bổ sung Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành lâm thời trình Đại hội Đảng bộ lần thứ

VII. Đối với cơ sở đảng chưa hết nhiệm kỳ, nội dung đại hội cũng được thực hiện như vậy, trừ việc kiện toàn cấp ủy. Nhờ sự chuẩn bị tích cực của Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ Khối và các tổ chức cơ sở đảng, chỉ trong một thời gian ngắn đến cuối tháng 4/1969, công tác chuẩn bị đại hội cơ bản xong.

Cuối tháng 5/1969, Đại hội đại biểu Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng cấp tỉnh lần thứ VII được tổ chức tại hội trường Hợp tác xã Quang Sơn, huyện Đô Lương. Đại hội đã khẳng định rõ vai trò, vị trí của Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng đối với sự phát triển bền vững của các ban, ngành cơ quan cấp tỉnh, với phong trào chung của toàn tỉnh trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng – an ninh. Đại hội nhiệt liệt biểu dương thành tích đạt được về công tác xây dựng Đảng của các tổ chức cơ sở đảng trong 4 năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Đồng thời cũng lưu ý, nhấn mạnh những tồn tại phổ biến và là nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của Đảng bộ trong thời gian vừa qua.

Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình trong thời gian tới, Đại hội đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ của Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng trong nhiệm kỳ: “Kiên định lập trường giai cấp vô sản, tiếp tục bồi dưỡng tư tưởng tiến công liên tục, tinh thần triệt để cách mạng, tư tưởng khẩn trương ngoan cường, nâng cao cảnh giác cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật, vượt khó khăn gian khổ, hết sức tranh thủ thuận lợi của tình hình mới, tự giác hoàn thành nhiệm vụ; khắc phục tư tưởng hữu khuynh, bảo thủ, rụt rè và mọi biểu hiện chủ nghĩa cá nhân như: cầu an, ngại khó, ngại khổ, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, chống quan liêu mệnh lệnh, xa rời thực tế, đề phòng tư tưởng mệt mỏi, xả hơi, hòa bình chủ nghĩa, phát huy dân chủ nội bộ, đẩy mạnh phê bình và tự phê bình, tăng cường đoàn kết nhất trí, ra sức xây dựng cơ quan vững mạnh về tư tưởng, tổ chức, đẩy mạnh phong trào “3 cải tiến”, công tác “3 quản”, bồi dưỡng và nâng cao trình độ quản lý kinh tế, trình độ, nghiệp vụ chuyên môn, quyết tâm xây dựng Đảng bộ, chi bộ, tổ đảng theo yêu cầu “4 tốt” với chất lượng cao, tích cực giành mọi thắng lợi cao nhất trên các mặt sản xuất, chiến đấu, đời sống, góp phần hoàn thành, hoàn thành vượt mức kế hoạch năm 1969”(15).

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ. Tại phiên họp đầu tiên, Ban Chấp hành Đảng bộ đã bầu đồng chí Chế Đình Hồng giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy, đồng chí Hồ Xuân Phúc giữ chức vụ Phó Bí thư Đảng ủy.

Sau Đại hội, Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng bước vào hoạt động trong bối cảnh mới, các tổ chức cơ sở đảng vừa được ổn định củng cố sau khi nhập khối. Đây là thời kỳ mở đầu việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng lần thứ VII và là giai đoạn cuối thực hiện nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội năm 1969 trong thời bình của Đảng bộ tỉnh. Nắm chắc Nghị quyết Đại hội, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh, được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, của Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng, các cơ sở đảng trong toàn Đảng bộ đã bắt đầu vận dụng và cụ thể hóa cho phù hợp đặc điểm tình hình, nhiệm vụ của từng cơ sở, tích cực triển khai thực hiện.

Ngày 21/7/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Đảng bộ Nghệ An. Bác khen đồng bào, chiến sĩ, cán bộ, đảng viên, đoàn viên, thanh niên Nghệ An đã chiến đấu, phục vụ chiến đấu tốt, làm tốt nhiệm vụ giao thông, vận tải, đi bộ đội, thanh niên xung phong và sản xuất tốt. Bác cũng không quên nhắc nhở Đảng bộ và Nhân dân cố gắng nhiều hơn nữa, vì kinh tế Nghệ An tiến còn chậm. Bác ân cần chỉ ra những việc phải làm sắp tới là: “Tích cực thực hiện dân chủ với Nhân dân hơn nữa; ra sức khôi phục và phát triển kinh tế; hết sức chăm lo đời sống Nhân dân; luôn luôn đề cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu”. Kết thúc lá thư, Bác căn dặn: “Nghệ An là một tỉnh rộng lớn, có tài nguyên phong phú, có Nhân dân cần cù lao động và rất cách mạng. Rất mong đồng bào và đồng chí tỉnh nhà ra sức phấn đấu làm cho Nghệ An mau trở thành một trong những tỉnh khá nhất ở miền Bắc”(16). Những lời chỉ bảo ân cần, niềm mong ước thiết tha sâu lắng của Bác thể hiện trong bức thư ngắn gọn đã trở thành tài liệu quý giá vô hạn đối với Đảng bộ, quân và dân toàn tỉnh, góp phần tiếp thêm sức mạnh cho công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng.

Ngày 6/8/1969, Tỉnh ủy ra nghị quyết phát động Đảng bộ, quân, dân toàn tỉnh học tập và thi đua làm theo thư Bác, với phương châm hành động thiết thực: Một mặt, phải nâng cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu, hành động của địch, tiếp tục làm tốt nhiệm vụ hậu phương, phục vụ tốt yêu cầu của tiền tuyến, mặt khác, giương cao ngọn cờ cách mạng tiến công, ý thức tự lực cánh sinh, tinh thần làm chủ tập thể, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, tăng cường dân chủ nội bộ, nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật của cán bộ, đảng viên, phát huy khả năng, tiềm lực phong phú trong tỉnh, đẩy mạnh sự nghiệp khôi phục kinh tế, tiến lên một bước mới toàn diện, nhanh mạnh và vững chắc, nhằm tăng cường tiềm lực kinh tế và quốc phòng, nâng cao từng bước đời sống của Nhân dân, cung cấp ngày càng nhiều hàng hóa cho xuất khẩu và tạo điều kiện cơ sở vững chắc cho những năm sau.

Trong lúc cán bộ, đảng viên, công nhân viên các cơ quan Dân Chính Đảng cùng toàn thể quân, dân Nghệ An thi đua thực hiện lời căn dặn của Bác Hồ thì được tin Người từ trần lúc 9 giờ 47 phút ngày 2/9/1969, tại Hà Nội. Cùng với Nhân dân cả nước, cán bộ, đảng viên, công nhân viên các cơ quan Dân Chính Đảng đã tổ chức long trọng lễ truy điệu Người.

Biến đau thương thành hành động cách mạng, các tổ chức cơ sở đảng trong toàn Đảng bộ đã tổ chức học tập Di chúc và bức thư của Người gửi Đảng bộ Nghệ An trước lúc đi xa; đoàn kết chặt chẽ, tạo ra một phong trào mạnh mẽ tiến quân vào mặt trận khôi phục kinh tế, thiết thực lập thành tích đền ơn Bác.

Đối với Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng, thông qua tổ chức thực hiện các nghị quyết của Trung ương, Tỉnh ủy và của Đảng bộ đã đạt được một số thành tích đáng kể trên tất cả các lĩnh vực.

Về kinh tế, ngành công nghiệp đã hướng vào tập trung phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống. Nhanh chóng chuyển sang thời bình, các cơ sở được bố trí sắp xếp, điều chỉnh lại nhằm phát huy cao nhất cơ sở vật chất, tiềm lực lao động của ngành, tìm biện pháp tăng năng suất, làm ra nhiều sản phẩm công nghiệp, phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống. Phương hướng tổ chức lao động sản xuất là tăng nhân lực trực tiếp sản xuất, giảm tối đa lao động gián tiếp. Đi đôi với cải tiến tổ chức, các định mức lao động kỹ thuật đã được xác định. Cơ quan đầu ngành đã bước đầu đi vào quản lý kinh tế, kỹ thuật, tham mưu cho ngành xây dựng định mức lao động kỹ thuật cho 21/23 cơ sở sản xuất. Có định mức lao động, cộng với tinh thần tự giác lao động sản xuất của cán bộ, đảng viên, công nhân viên, số lượng, chất lượng sản phẩm công nghiệp làm ra ngày càng tăng. Ngành đã tham mưu cho Ủy ban hành chính tỉnh quyết định chính sách trả lương theo sản phẩm. Cùng với đó, chính sách khuyến khích lợi ích vật chất cho người lao động từng bước được mở rộng, có tác động tích cực, khuyến khích công nhân hăng hái sản xuất và tự giác khắc phục khó khăn, phát huy sáng kiến, tăng năng suất lao động, tăng sản phẩm xã hội. Khôi phục và xây dựng những định mức vật tư kỹ thuật cho sản xuất. Nhờ vậy, thái độ, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, công nhân viên trong việc bảo quản máy móc, sản phẩm, tài sản của đơn vị, Nhà nước được nâng cao.

Ngành ngân hàng, tài chính, thương nghiệp đã cử nhiều cán bộ, đảng viên về cơ sở nắm tình hình, tìm biện pháp vay và cho vay, tìm nguồn hàng, khai thác nguồn thu mới để đáp ứng yêu cầu sản xuất, đời sống của nông dân nói riêng, đồng bào, chiến sĩ nói chung.

Các ngành kỹ thuật trực tiếp phục vụ sản xuất như Ty Nông nghiệp, Ty Thuỷ lợi, Trạm giống Nghi Văn, Đài khí tượng,… cũng có nhiều chuyển biến trong việc đi sát cơ sở, đi sâu chỉ đạo điển hình rút kinh nghiệm hoặc tổ chức những lớp tập huấn chuyển giao kỹ thuật cho cơ sở, qua đó đề ra những chỉ tiêu định mức sát với thực tế và thời vụ sản xuất. Đặc biệt, Ty Nông nghiệp đã cử nhiều cán bộ, đảng viên là chuyên viên nghiên cứu ra tận tỉnh Thái Bình, học tập kinh nghiệm thâm canh lúa nước, về áp dụng, với kỳ vọng sớm khắc phục nạn thiếu lương thực cho quê hương.

Các cơ quan nghiên cứu, tổng hợp vẫn tiếp tục phát huy phong trào “3 cải tiến”, đi vào công tác “3 quản” nhất là quản lý lao động, từng thời kỳ có chương trình kế hoạch công tác, quy định chế độ chức trách cho từng bộ phận, từng cán bộ, đảng viên thực hiện bám cơ sở, bám điểm, đi báo việc về báo công,…

Các trường học đã chăm lo sắp xếp bộ máy, nhất là đội ngũ giáo viên. Chương trình, giáo án được bổ sung từng bước sát với đối tượng. Phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt” được duy trì và đẩy mạnh. Mặc dù lúc này, đời sống vật chất còn nhiều khó khăn, nhưng các cơ sở đảng ở các trường học đã lãnh đạo cán bộ, đảng viên khắc phục, vươn lên chiêu sinh đúng kế hoạch. Hằng năm, học sinh ra trường đạt chất lượng khá, giỏi ngày càng tăng.

Ngành Y tế và các bệnh viện cũng có nhiều tiến bộ, các tổ chức cơ sở đảng đã đi sâu lãnh đạo cán bộ, đảng viên, công nhân viên, nhất là đội ngũ y, bác sĩ nhận thức tốt 4 nhiệm vụ của bệnh viện: điều trị, phòng bệnh, nghiên cứu khoa học, đào tạo cán bộ, thực hiện 4 nhiệm vụ trên, trong đó tập trung nhất là nhiệm vụ điều trị bệnh, cứu sống người làm chính, với tinh thần “thương yêu bệnh nhân như ruột thịt của mình”, hết lòng phục vụ bệnh nhân vô điều kiện. Nhờ đó, các bệnh viện đã nâng cao được chất lượng khám, chữa bệnh cũng như hướng dẫn phòng bệnh, hạn chế được tối thiểu tình trạng tử vong do sơ suất về trách nhiệm.

Các ngành, các cơ quan văn hóa, văn nghệ, thông tin, giáo dục, báo, đài, xuất bản,… hướng vào việc tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, gương “Người tốt, việc tốt” trong phong trào lao động sản xuất và chiến đấu giải phóng quê hương. Hướng dẫn Nhân dân phát huy truyền thống đoàn kết, đấu tranh cách mạng của quê hương, dân tộc, chống lãng phí, tham ô,…

Mặc dù thực hiện nhiệm vụ khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa gặp nhiều khó khăn vì thiếu thốn về nguồn nguyên liệu, nhiên liệu, lao động, tiền vốn, cả biến động tư tưởng và tổ chức, nhưng hầu hết các cơ quan, ban, ngành đều phấn đấu hoàn thành kế hoạch được giao hằng năm. Một số ngành, cơ quan trong 4 năm chống chiến tranh phá hoại của Mỹ cho đến nay vẫn giữ vững vai trò là lá cờ đầu, được ngành suy tôn như: Ty Tài chính, Chi cục Xăng dầu, Đài khí tượng, Chi cục Thống kê, Công ty Muối cấp I, Trạm đánh cá biển, Chi nhánh Ngân hàng Kiến thiết, Công ty Thực phẩm, Công ty Xuất khẩu Ngoại thương, Phân cục Lâm sản Nghệ Tĩnh,…

Công tác xây dựng, củng cố tổ chức Đảng ngày càng được nâng cao hơn, nhất là từ khi thực hiện ba cuộc vận động lớn, đặc biệt là cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên. Hầu hết các tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ đã có chuyển biến, tác dụng tích cực nhất đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, rèn luyện đạo đức, phẩm chất cho cán bộ, đảng viên.

Đáp ứng yêu cầu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân Mỹ, về tổ chức, bộ máy chuyên môn của các ban, ngành được tăng cường, số cán bộ, công nhân viên tăng lên nhanh chóng, từ 5.805 người (năm 1964) lên 18.297 người (năm 1971). Sau khi địch ngừng ném bom, nhiệm vụ chính trị mới đòi hỏi phải củng cố tổ chức với yêu cầu gọn nhẹ, chất lượng cao. Thực hiện ba cuộc vận động lớn của Trung ương Đảng, những năm qua, Đảng ủy đã chỉ đạo các tổ chức cơ sở đảng lãnh đạo chuyên môn thực hiện một bước kiện toàn tổ chức, tinh giản bộ máy, giảm nhẹ biên chế, chuyển lao động cho khu vực sản xuất. Tính đến tháng 7/1971, các cơ quan trong toàn Đảng bộ đã giảm được 2.370 cán bộ, nhân viên (hưu trí: 463 người, thôi việc theo chính sách: 733 người, chuyển sang trực tiếp sản xuất: 728 người).

Đồng thời, với việc giảm biên chế, các cơ quan cũng kiện toàn lại tổ chức; đẩy mạnh phong trào “3 cải tiến”, thực hiện chế độ “3 quản”, nhất là quản lý lao động. Định rõ chức năng nhiệm vụ, tiêu chuẩn phấn đấu cho từng bộ phận, cho từng người. Cải tiến phương pháp công tác, tác phong chỉ đạo, một số cơ quan đã thực hiện chế độ chấm công, từng bước hạn chế được tình trạng lãng phí lao động. Nhờ đó, các cơ quan trong Đảng bộ mặc dầu giảm biên chế nhưng kết quả vẫn đảm bảo, thậm chí còn cao hơn. Ngày công và chất lượng ngày công được nâng lên như: Công ty Muối cấp I, bình quân ngày công từ 21 ngày, tăng lên 23 ngày; Chi cục Xăng dầu 23,7 ngày; Ty Tài chính 24 ngày; toàn ngành Thương nghiệp đạt 22,5 ngày. Bình quân ngày công của các đơn vị thấp nhất cũng đã đạt 21,7 ngày.

Công tác xây dựng Đảng bộ, chi bộ, tổ đảng ngày càng gắn với nhiệm vụ chuyên môn. Các kỳ sinh hoạt Đảng của hầu hết các tổ chức cơ sở đảng theo định kỳ, nội dung sinh hoạt được cải tiến, lấy nhiệm vụ chuyên môn, việc rèn luyện phẩm chất đạo đức để kiểm tra, giáo dục đảng viên. Trong sinh hoạt đã thực hiện nghiêm chế độ tự phê bình và phê bình.

Việc tổ chức học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kiến thức cho cán bộ, đảng viên về các mặt chính trị, quản lý kinh tế kỹ thuật và văn hóa được đặt ra và trở thành nhiệm vụ thường xuyên. Một số cơ quan đã tổ chức được lớp học nâng cao trình độ nghiệp vụ như: Ty Tài chính, Liên hiệp Công đoàn, Chi cục Thống kê, Cơ quan Tỉnh ủy,… Riêng Ty Tài chính đã có 86% cán bộ, đảng viên, được nâng cao thêm về nghiệp vụ. Kết quả của việc tổ chức học tập nâng cao trình độ cán bộ, đảng viên bước đầu kết quả còn khiêm tốn, song đã thể hiện trách nhiệm của tổ chức đảng, chuyên môn, cũng như ý thức chung của từng cán bộ, đảng viên, khẳng định việc học tập nâng cao kiến thức là yêu cầu thường xuyên và cấp bách.

Công tác kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh có tiến bộ về chất lượng, nguyên tắc thủ tục và phương hướng, phương châm. Trong ba đợt kết nạp theo chỉ đạo của Tỉnh ủy, Đảng bộ đã kết nạp được 139 đảng viên. Nhìn chung, những đảng viên mới được kết nạp là người ưu tú, đã được rèn luyện thử thách trong sản xuất, chiến đấu, công tác. Sau khi được kết nạp, hầu hết các đảng viên vẫn giữ được vai trò đầu tàu của phong trào.

Công tác vận động quần chúng của các cơ sở đảng có nhiều tiến bộ, quần chúng trong các cơ quan nhìn chung phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của tổ chức đảng.

Tổ chức công đoàn đã giáo dục, động viên công nhân viên chức hiểu rõ quyền làm chủ, tích cực tham gia quản lý cơ quan. Hầu hết công nhân viên chức các cơ quan đã tích cực hưởng ứng phong trào thi đua, tích cực lao động sản xuất, vươn lên khắc phục khó khăn, hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà nước. Kết quả của phong trào đã góp phần đáng kể vào thành tích chung, làm cho vai trò, vị trí của tổ chức công đoàn và phong trào công nhân viên chức của các cơ quan thể hiện ngày càng rõ nét hơn.

Riêng về mặt tổ chức đời sống, một số tổ chức công đoàn cơ sở ở các đơn vị đã đảm nhiệm được nhiều mặt như: tổ chức cho đoàn viên học tập nâng cao trình độ văn hóa, nghiệp vụ chuyên môn, tổ chức các nhóm văn hóa, văn nghệ, tổ chức và đưa vào sinh hoạt có nền nếp việc học tập thời sự, chính sách, đọc báo Đảng, tham gia câu lạc bộ bóng bàn, bóng chuyền,… tạo không khí vui, khỏe trong cơ quan. Đặc biệt, từ khi có chủ trương ổn định cơ quan ở địa điểm sơ tán, nhiều công đoàn cơ sở đã có đóng góp trong việc tổ chức làm thêm hoặc tu sửa nhà cửa, giếng nước, củng cố nơi ăn, ở sinh hoạt sạch sẽ. Tích cực tăng gia cải thiện, điển hình như năm 1970, các đơn vị đã trồng được 33.634 cây ăn quả, 91.000kg rau các loại, 75.481kg chất bột, chăn nuôi được 33.842kg thịt lợn, 12.141kg gia cầm. Ngoài ra, còn tổ chức lao động vận chuyển gạo, củi. Nhờ đó, nhiều bếp ăn tập thể của các cơ quan vẫn giữ được mức ăn tương đối khá cho cán bộ, công nhân viên.

Trên cơ sở trình độ giác ngộ lý tưởng cộng sản được nâng lên, các tổ chức cơ sở đoàn, đoàn viên, thanh niên luôn khẳng định được vai trò xung kích trong mọi nhiệm vụ của đơn vị, nhất là trên lĩnh vực quốc phòng và khoa học kỹ thuật. Trong những năm 1969 – 1971, tổ chức đoàn thanh niên đã bồi dưỡng, giới thiệu cho Đảng trên 5.000 đối tượng, một số đoàn viên đã được các tổ chức đảng các cơ quan kết nạp vào Đảng.

Công tác kiểm tra đã được Đảng ủy chỉ đạo và kết hợp với các cơ sở đảng tiến hành theo định kỳ. Các kỳ kiểm tra đã đạt được một số kết quả, có tác dụng giáo dục cán bộ, đảng viên nhưng nhìn chung, chưa thường xuyên chủ động, vẫn còn thụ động chạy theo những khuyết điểm đã xảy ra. Qua công tác kiểm tra gắn với tổng kết hằng năm, bên cạnh những thành tích, Đảng bộ vẫn còn những tồn tại, khuyết điểm cả trên ba mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức như: một số cán bộ, đảng viên chưa quán triệt đầy đủ nhiệm vụ trung tâm của ngành, của đơn vị; không ít đơn vị còn lúng túng, chưa xác định được hoặc xác định chưa rõ nhiệm vụ chính trị, nhất là các đơn vị hành chính sự nghiệp; nhiều cá nhân trong từng thời kỳ chưa xác định được tiêu chuẩn phấn đấu, do đó có những chủ trương đảng viên thực hiện chưa được tốt và chưa thể hiện được sự phấn đấu cũng như nhiệt tình cách mạng cao; thậm chí có đơn vị và cá nhân chấp hành chỉ thị, nghị quyết của cấp trên không nghiêm, còn mang tính đối phó, không những tác động đến hiệu quả công tác mà còn gây tổn thất cho sản xuất và ảnh hưởng đến đời sống.

Những tháng cuối năm 1970, Ban Bí thư Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương liên tiếp chỉ thị cho các tỉnh thuộc Quân khu 4 thông báo về âm mưu của địch và chiến lược của ta; xác định yêu cầu đối với các tỉnh và lực lượng vũ trang Quân khu 4 lúc này là “chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu; sản xuất, đẩy mạnh sản xuất”. Phải chuẩn bị về mọi mặt để đáp ứng hai yêu cầu:

  • Đánh địch tiến công hạn chế ra địa bàn Quân khu
  • Tham gia với cấp trên trong những hoạt động tiến công, phản công đánh địch trên các hướng, khi có yêu cầu.

Thực hiện những chỉ thị mới của Trung ương Đảng, ngày 24/2/1971, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An ra Nghị quyết: “Tăng cường sẵn sàng chiến đấu, kiên quyết tiêu diệt địch, đập tan mọi âm mưu chiến tranh của Mỹ đối với miền Bắc và quê hương Nghệ An”. Nghị quyết dự kiến ba tình huống để chuẩn bị đối phó:

  • Địch tăng cường đánh phá bằng không quân ném bom trở lại miền Bắc ác liệt hơn, đánh tập trung dồn dập rồi dừng lại. Cũng có thể đánh kéo dài như những năm trước.
  • Địch tập kích bằng các lực lượng biệt kích quy mô nhỏ và vừa, đánh phá nhanh rồi rút nhanh.
  • Địch tấn công hạn chế bằng lục quân với quy mô khác

Nghị quyết cũng nhấn mạnh: “Dù tình huống nào thì chiến tranh ở Nghệ An cũng sẽ diễn ra hết sức ác liệt và tàn bạo”. Vì vậy, khẩu hiệu hành động của quân, dân Nghệ An là: “Chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu; sản xuất, đẩy mạnh sản xuất”; “Bất cứ kẻ địch đánh phá bằng hình thức nào, thời gian nào, quy mô lực lượng như thế nào, chúng ta cũng quyết đánh địch tại chỗ, đánh địch bằng mọi lực lượng và phương tiện, quyết đánh thắng địch hoàn toàn, giữ vững giao thông thông suốt, bảo vệ tính mạng và tài sản của Nhân dân, bảo vệ cơ quan, kho tàng, đồng thời đẩy mạnh sản xuất và ổn định đời sống Nhân dân”(17).

Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Đảng ủy Cơ quan Dân Chính Đảng, các cơ sở đảng đã lãnh đạo cơ quan, ban, ngành sôi nổi hưởng ứng phong trào “Toàn dân đánh giặc”, “Toàn dân bàn việc nước”. Lực lượng tự vệ cơ quan hăng say luyện tập đánh giặc tại chỗ theo phương án định sẵn. Hàng vạn ngày công của cán bộ, công nhân viên được huy động tham gia cùng các địa phương xây dựng thế trận phòng thủ đánh địch, nhưng trên đồng ruộng, nhà máy, cơ quan, trường học, bệnh viện,… vẫn duy trì lao động sản xuất, học tập với một khí thế mới, tất cả vì một hậu phương Nghệ An vững mạnh.

Để kịp thời lãnh đạo các đơn vị, ban, ngành cấp tỉnh trong điều kiện có thể xảy ra chiến tranh trên địa bàn tỉnh, từ ngày 17 đến 20/7/1971, Đại hội đại biểu Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh Nghệ An lần thứ VIII được tổ chức. Về dự Đại hội có 170 đại biểu, thay mặt cho 6.605 đảng viên, sinh hoạt tại 86 cơ sở đảng trong toàn Đảng bộ. Đồng chí Nguyễn Sĩ Quế, Phó Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Dương Thị Hồng Phương, Trưởng Ban Kiểm tra Tỉnh ủy về dự và chỉ đạo Đại hội.

Đại hội đã đánh giá ưu điểm, khuyết điểm trong lãnh đạo công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ nhiệm kỳ 1969 – 1971. Đồng thời khẳng định công tác xây dựng Đảng những năm 1969 – 1971: “Thành tích ưu điểm là căn bản, xu thế phong trào đang trên đà tiến bộ vươn lên. Đại bộ phận cán bộ, đảng viên thuộc Đảng bộ vững vàng về chính trị, tuyệt đối trung thành với Đảng, với cách mạng, đều có chí tiến thủ, mong muốn cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng chóng thành công, cơ sở đảng và tổ chức quần chúng đã được kiện toàn thêm một bước,…”(18). Đồng thời, Đại hội cũng thẳng thắn chỉ ra các khuyết điểm, tồn tại của Đảng bộ trong thời gian qua.

Xuất phát từ yêu cầu của tình hình nhiệm vụ mới, Đại hội đã đề ra phương hướng cho nhiệm kỳ tới là: “Quán triệt Nghị quyết số 19 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III), tiếp tục thực hiện tốt ba cuộc vận động, bồi dưỡng tinh thần triệt để cách mạng, ý chí chiến đấu cho độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, tinh thần dũng cảm trong sản xuất cũng như chiến đấu, nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, làm chủ tập thể, tinh thần tự lực cánh sinh, chủ động sáng tạo, tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa; khắc phục tư tưởng hữu khuynh bảo thủ, chống tư tưởng tự do vô kỷ luật, lơ là mất cảnh giác chính trị, thiếu trách nhiệm cầu an, ngại khó, ngại khổ; phê phán tư tưởng hòa bình nghỉ ngơi, thỏa mãn thành tích; chống quan liêu độc đoán gia trưởng, kém đạo đức cách mạng, thiếu đoàn kết, tham ô, lãng phí và biểu hiện cá nhân chủ nghĩa khác; suy bì đãi ngộ, tư lợi, tính toán cá nhân, sinh hoạt phóng túng; xây dựng nếp sống cần cù, giản dị, khiêm tốn, chí công vô tư; kiện toàn tổ chức, củng cố sinh hoạt, đảm bảo dân chủ kỷ luật, nâng cao phê bình và tự phê bình có tình, có lý với thái độ thực sự cầu thị, thương yêu đồng chí; xây dựng lề lối làm việc khoa học, phong cách chỉ đạo cụ thể, sát cơ sở, sát thực tế. Ra sức bồi dưỡng nâng cao kiến thức cách mạng, trình độ chính trị văn hóa, khoa học kỹ thuật, năng lực quản lý kinh tế, quản lý cơ quan, khả năng vận động quần chúng, trình độ công tác xây dựng Đảng. Quyết tâm xây dựng Đảng bộ vững về tư tưởng, mạnh về tổ chức, đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị trong mọi tình huống, góp phần hoàn thành Kế hoạch nhà nước năm 1971 – 1972, xây dựng tỉnh ta thành một trong những tỉnh khá nhất miền Bắc”(19).

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng gồm 23 ủy viên. Ban Chấp hành Đảng bộ bầu đồng chí Chế Đình Hồng giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy, đồng chí Hồ Xuân Phúc giữ chức vụ Phó Bí thư Đảng ủy.

Sau Đại hội, ngày 17/8/1971, Đảng ủy Cơ quan Dân Chính Đảng mở đợt sinh hoạt chính trị trong toàn Đảng bộ, trước hết là đối với cán bộ, đảng viên. Toàn bộ đợt sinh hoạt chính trị nhằm quán triệt và vận dụng Nghị quyết số 19 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng đối với Đảng bộ tỉnh Nghệ An, Nghị quyết của Tỉnh ủy về nhiệm vụ năm 1971, Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng lần thứ VIII. Trên cơ sở đó, nâng cao trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên, ra sức đẩy mạnh hoàn thành Kế hoạch nhà nước năm 1971, sản xuất vụ đông – xuân năm 1971 – 1972. Đợt sinh hoạt chính trị chia làm ba bước và được tổng kết vào ngày sinh nhật Đảng (3/2/1972).

Những tháng cuối năm 1971, không quân Mỹ xâm nhập vùng trời Nghệ An với 358 lần tốp máy bay các loại, đánh phá nhiều địa điểm trong tỉnh, nhất là thành phố Vinh và các vùng phụ cận. Kẻ thù đã gây thêm tội ác mới đối với Nhân dân tỉnh nhà. Trên vùng biển, tàu biệt kích Mỹ tăng cường chặn đánh tàu, thuyền đánh cá của ngư dân. Địch càng ráo riết hoạt động, quân dân Nghệ An càng cảnh giác cao và ra sức bảo vệ vùng trời, vùng biển quê hương, trừng trị kịp thời mọi hành động tội ác của chúng.

Cuối tháng 3/1972, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, cán bộ, đảng viên Cơ quan Dân Chính Đảng cùng quân, dân Nghệ An đã sẵn sàng về tư tưởng, tổ chức, tinh thần và lực lượng cùng với Nhân dân miền Bắc “hướng ra phía trước”, “hướng vào chiến đấu”, kiên quyết đánh bại mọi âm mưu, hành động mới của địch, bảo vệ vững chắc hậu phương, tích cực chi viện cho chiến trường.

Ngày 6/4/1972, đế quốc Mỹ tuyên bố dùng không quân, hải quân tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc nước ta lần thứ hai. Cùng ngày, chúng cho nhiều tốp máy bay ném bom, bắn phá một số vùng thuộc khu vực Vĩnh Linh và tỉnh Quảng Bình. Ngày 10/4/1972, tại Nghệ An, đế quốc Mỹ đã dùng nhiều tốp máy bay, trong đó có 9 máy bay chiến lược B52 (lần đầu tiên xuất hiện trên bầu trời miền Bắc) ào ạt ném bom dày đặc lên các xã: Hưng Hoà, Hưng Dũng, Nghi Phú, Nghi Kim, Hưng Đông và Khu phố 5 (thành phố Vinh) gây tổn thất lớn về người và tài sản của Nhân dân. Quân, dân thành phố Vinh đã kịp thời đánh trả quyết liệt, bắn rơi 2 chiếc máy bay F4 của chúng.

Trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, đế quốc Mỹ leo thang từng bước, vừa đánh vừa thăm dò, nhưng lần thứ hai này, ngay từ đầu chúng đã dùng sức mạnh của không quân, hải quân(20), sử dụng các loại máy bay hiện đại được cải tiến như: máy bay F4 (vừa tiêm kích vừa cường kích), F111, B52 và nhiều loại bom mới như: từ trường, la-de; tăng cường kỹ thuật gây nhiễu phức tạp, dùng những thủ đoạn chiến thuật xảo quyệt, tàn bạo, đánh phá ồ ạt, kết hợp tập kích chớp nhoáng, bất ngờ. Với những thủ đoạn trên, đế quốc Mỹ tin chắc rằng, chỉ trong một vài tháng, “không lực Hoa Kỳ sẽ làm Bắc Việt Nam kiệt sức, hết hơi, buộc phải cúi đầu khuất phục”.

Đánh giá đúng tình hình, thấy rõ bản chất hiếu chiến, liều lĩnh của đế quốc Mỹ, ngày 16/4/1972, Trung ương Đảng và Chính phủ ra Lời kêu gọi: Quân và dân cả nước quyết vượt qua mọi gian khổ và hy sinh để đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, đánh bại chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của chúng, nhằm bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam, tiến tới hòa bình, thống nhất đất nước”.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng và Chính phủ, hướng về Đại hội lần thứ XII của Đảng bộ tỉnh(21), Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh Nghệ An đã lãnh đạo, chỉ đạo các cơ sở đảng tập trung lãnh đạo các đơn vị khẩn trương làm tốt công tác phòng không, sơ tán, đẩy mạnh hơn nữa việc chuyển hướng tổ chức lao động, sản xuất, ổn định đời sống phù hợp với tình hình thời chiến. Công tác lãnh đạo chính trị, tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên, công nhân viên được coi trọng. Cấp ủy các cơ sở đảng đã vững vàng trong tư thế lãnh đạo, quyết tâm đánh thắng chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của đế quốc Mỹ.

Trong bối cảnh kẻ thù uy hiếp, công tác ở các đơn vị có vị trí là cơ quan đầu tỉnh, đầu ngành với chức năng chủ yếu làm công tác tham mưu cho tỉnh, ngành, đơn vị trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ các đồng chí cán bộ lãnh đạo, chuyên viên đến người phục vụ đã quả cảm bám trụ đơn vị, hăng say lao động, sản xuất, sẵn sàng chiến đấu đánh địch.

Những cán bộ, đảng viên được phân công về chỉ đạo ở các vùng, các điểm luôn gương mẫu, dũng cảm, luôn sát cánh bên tập thể công nhân, bà con nông dân, giúp họ hiểu được quy trình kỹ thuật sản xuất, tổ chức quản lý, lao động, cũng như những chính sách đúng đắn của Đảng, phục vụ cho lợi ích của Nhân dân.

“Lửa thử vàng, gian nan thử sức”, qua thử thách, rèn luyện trong khó khăn, ác liệt của chiến tranh, cán bộ, đảng viên, công nhân viên các cơ quan Dân Chính Đảng thêm vững vàng về mọi mặt, trưởng thành trong lao động sản xuất và chiến đấu. Năm 1972, thời gian đầu thực hiện Nghị quyết số 19, 20 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII, các ban, ngành trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao đã chủ động tham mưu cho Tỉnh ủy, Ủy ban hành chính tỉnh kịp thời ban hành những nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch bám sát tình hình thực tiễn để lãnh đạo, chỉ đạo Nhân dân tỉnh nhà khẩn trương chuyển hẳn mọi hoạt động sang thời chiến, làm tốt các nhiệm vụ: chiến đấu giỏi, phòng tránh tốt, trị an vững; giao thông, vận tải thông suốt, thực hiện chuyển hướng kinh tế toàn diện, phát động cao trào lao động sản xuất, đặc biệt ra sức phát triển sản xuất lương thực, thực phẩm; bảo vệ đê điều, phòng, chống bão, lụt, phòng, chống địch phá; thực hiện tốt công tác tuyển quân và huy động nhân lực; tổ chức tốt đời sống trong thời chiến của Nhân dân; tăng cường công tác xây dựng Đảng. Chất lượng các vấn đề tham mưu của các ngành ngày càng hiệu quả như: Đề án tổ chức lại sản xuất nông nghiệp, hình thành vùng chuyên canh, thâm canh theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa của Ủy ban Nông nghiệp và Ty Nông nghiệp; Đề án tổ chức, chỉ đạo thành lập các đội ứng cứu giao thông và vận tải thô sơ của Ban Đảm bảo giao thông vận tải của tỉnh; chính sách thu mua lương thực giá cao của Ty Lương thực. Mặc dù, địch đánh phá ác liệt nhưng các tổ chức cơ sở trong Đảng bộ đã không ngại gian khổ, hy sinh bám sát sự chỉ đạo của tổ chức đảng cấp trên, nhiệm vụ cụ thể của đơn vị, vạch ra những nghị quyết lãnh đạo đúng, sát, hiệu triệu được cán bộ, đảng viên, công nhân viên dồn sức hoàn thành tốt kế hoạch từng tháng, từng quý và cả năm. Điển hình có một số cơ sở vươn lên hoàn thành vượt mức kế hoạch như: Công ty Vật tư nông nghiệp, Trại giống tổng hợp Nghi Văn, Ty Lương thực và Ty Nông nghiệp, Ty Thủy lợi, Ty Lâm nghiệp. Một số ngành như: Ty Công nghiệp, Ty Thương nghiệp gặp khó khăn về nguyên liệu, tổ chức sản xuất cũng nỗ lực vươn lên hoàn thành 50 – 90% kế hoạch. Những hoạt động sôi nổi của phong trào thi đua phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn, chỉ tiêu kế hoạch được giao của cán bộ, đảng viên, công nhân viên các cơ quan Dân Chính Đảng cấp tỉnh trong năm 1972 đã góp phần tích cực vào thành tích tiêu biểu của tỉnh nhà.

Trong 9 tháng (10/4/1972 – 15/1/1973), quân và dân Nghệ An đã chiến đấu bắn rơi 92 máy bay Mỹ, trong đó có 11 máy bay chiến lược B52, 1 máy bay F111A; 26 tàu chiến Mỹ, góp phần quan trọng cùng Nhân dân miền Bắc đánh bại chiến tranh phá hoại lần hai của Mỹ vào tháng 1/1973.

Trên lĩnh vực kinh tế, năm đầu sản xuất nông nghiệp, tỉnh ta giành được thắng lợi to lớn chưa từng có, được Nhà nước ghi tên vào bảng vàng tỉnh đạt 5 tấn thóc/ha hai vụ lúa ổn định.

Trong các đợt tuyển quân chi viện chiến trường năm 1972, Nghệ An đều vượt chỉ tiêu số lượng, đảm bảo chất lượng và thời gian.

Toàn tỉnh có 190.607 thanh niên đi bộ đội (vượt chỉ tiêu 16,7%), 3.175 thanh niên xung phong, 5.980 dân công hỏa tuyến. Công tác đảm bảo giao thông, vận tải, chi viện chiến trường thường xuyên thông suốt,…

Chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của đế quốc Mỹ bị quân, dân ta đánh bại. Bước sang giai đoạn cách mạng mới, bên cạnh những thuận lợi, cán bộ, đảng viên, công nhân viên các cơ quan Dân Chính Đảng nói riêng, Nhân dân Nghệ An nói chung cũng đứng trước những khó khăn lớn do tổn thất nặng nề trong hai lần chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Cả tỉnh có 15.203 người chết; 20.605 người bị thương vì bom đạn Mỹ; phần lớn các xí nghiệp và cơ sở công nghiệp, hệ thống thủy lợi, đê điều, đập chứa nước đều bị máy bay Mỹ dội bom phá hoại; ba ra Đô Lương, ba ra Nam Đàn, ba ra Bến Thủy bị đánh phá nhiều lần; thành phố Vinh trở thành đống gạch vụn; 30 bệnh viện, trạm xá từ tỉnh, huyện đến xã, 178 trường học ở 18 huyện, thị trong tỉnh bị địch đánh phá. Hệ thống giao thông, phương tiện vận tải bị phá hoại trầm trọng, đối tượng giải quyết chính sách hậu phương quân đội tăng lên, yêu cầu bồi dưỡng sức dân để huy động cao hơn trở nên cấp thiết; mặt khác, tác phong làm việc của cán bộ theo lối công nghiệp, khoa học và nền nếp bước đầu được xây dựng trong những năm hòa bình, nay cũng bị ảnh hưởng do hoàn cảnh chiến tranh.

V.   LÃNH ĐẠO CỦNG CỐ HẬU PHƯƠNG, CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN, GÓP PHẦN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (1973 – 1975)

Sau khi thua đau trên bầu trời Hà Nội vào cuối năm 1972, đến tháng 1/1973, Mỹ buộc phải ký Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam. Miền Bắc nói chung và Nghệ An nói riêng kể từ đây bước sang một giai đoạn mới. Từ tháng 3/1973, thực hiện lệnh của Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh, các cơ quan ban, ngành cấp tỉnh lần lượt hồi cư về thành phố Vinh, trừ các cơ sở công nghiệp, trạm, trại đã được quy hoạch, xây dựng cơ bản, còn các đơn vị hành chính được bố trí đóng ở các xã ngoại thành. Trụ sở của cơ quan Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng cũng được chuyển từ xã Quang Sơn, huyện Đô Lương về xóm Phong Toàn, xã Hưng Dũng (vị trí hiện nay của Bệnh viện Y học cổ truyền Nghệ An, thuộc khối Trung Hòa, phường Hà Huy Tập, thành phố Vinh). Tại đây, Tỉnh ủy cho Đảng ủy xây một nhà cấp bốn, 5 gian. Những tháng đầu năm 1973, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban hành chính tỉnh đã động viên mọi ngành, mọi giới, mọi lực lượng tham gia chiến dịch rà phá bom mìn, san lấp hố bom, giải phóng mặt bằng để sản xuất, xây dựng, giải phóng các tuyến đường bộ, đường thủy đảm bảo mạch máu giao thông thông suốt, đưa hàng chi viện miền Nam và ổn định đời sống Nhân dân. Các địa phương, từ miền núi đến đồng bằng ven biển, ngày ngày có hàng ngàn, hàng vạn người ra đồng, mỗi địa phương là một công trường lao động hăng say, vừa biểu lộ sự vui mừng của ngày hội chiến thắng, vừa thể hiện không khí sôi nổi thi đua, thiết thực xây dựng quê hương. Hòa vào không khí thi đua lao động chung của Nhân dân toàn tỉnh, cán bộ, đảng viên, công nhân viên các cơ quan Dân Chính Đảng vừa đẩy mạnh hoàn thành công tác chuyên môn, vừa tích cực di chuyển cơ quan về thành phố Vinh. Mặc dù phải vận chuyển vật liệu tranh, tre từ Tân Kỳ, Nghĩa Đàn về nhưng trong một thời gian ngắn, thành phố Vinh đã hoàn thành hàng trăm căn nhà, đảm bảo nơi ăn ở, làm việc ổn định. Điểm nổi bật trong xây dựng nhà ở của các cơ quan là hầu hết các đơn vị đã động viên tinh thần tự lực cánh sinh của cán bộ, công nhân viên, ít phải thuê lao động, tiêu biểu như: Chi cục Thống kê, anh chị em đã làm được nhà gỗ lợp ngói; các phòng của Ty Công an tranh thủ ngày đêm làm nhà ở cho cán bộ, nhân viên và còn nhận làm thêm nhà công cộng. Về nhiệm vụ chuyên môn, các đơn vị đều hoàn thành tốt, có đơn vị hoàn thành vượt mức kế hoạch như: Xưởng bánh kẹo Vinh, Thanh Chương đã sản xuất được 77/70 tấn bánh kẹo, kịp thời phục vụ lễ mừng công ngày 1/5/1973, Công ty Thực phẩm, Công ty Nông sản đều hoàn thành kế hoạch quý I năm 1973, thu mua, chế biến trước thời gian; các chương trình của Ty Công an đạt yêu cầu, nhất là công tác bảo vệ an toàn cho các đoàn khách nước ngoài; Ty Bưu điện trong thời gian xây dựng nhà ở cơ quan còn trang bị thêm 21 máy điện thoại, kéo 50km đường dây.

Hoà bình lập lại, Đảng ủy Cơ quan Dân Chính Đảng đã nhanh chóng chuyển nhiệm vụ chính trị từ chỉ đạo chiến tranh sang xây dựng và phát triển kinh tế. Các tổ chức cơ sở đảng của các cơ quan, ban, ngành cấp tỉnh đã quán triệt và vận dụng tốt hơn nội dung của ba cuộc cách mạng, định rõ được mục tiêu, phương hướng phấn đấu cho cơ quan mình và tổ chức cho quần chúng tham gia bàn luận một cách rộng rãi, dân chủ.

Những năm 1973 – 1975, thực hiện các nghị quyết, chỉ thị mới của Trung ương, của Tỉnh ủy, đặc biệt là Nghị quyết 195-NQ/TW, ngày 6/3/1970 của Bộ Chính trị về nâng cao chất lượng đảng viên, Chỉ thị số 192-CT/TW, ngày 26/10/1971 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về đưa những người không đủ tư cách ra khỏi Đảng và Nghị quyết số 23 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, sự chỉ đạo của Đảng ủy Cơ quan Dân Chính Đảng, các cơ sở đảng đã mở nhiều đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng cho toàn thể đảng viên và được đông đảo cán bộ, công nhân viên quan tâm, tham gia góp ý, đấu tranh khắc phục những điểm yếu về xây dựng Đảng ở các cơ quan, ban, ngành. Công tác xây dựng Đảng gắn với nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ chuyên môn cụ thể của cơ quan, ban, ngành có chuyển biến tốt hơn trước. Nhờ được quán triệt thêm về nguyên tắc, phương châm xây dựng Đảng, yêu cầu, nội dung cụ thể về nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, nên đã củng cố lập trường giai cấp cho cán bộ, đảng viên, nâng cao ý chí phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ chính trị của bản thân và của đơn vị trong từng thời kỳ.

Qua khảo sát việc thực hiện Chỉ thị số 192-CT/TW, Nghị quyết số 195-NQ/TW ở Đảng bộ Ty Nông nghiệp cho thấy, các chỉ thị, nghị quyết đã có tác dụng lớn về nâng cao chất lượng đảng viên và củng cố tổ chức đảng, củng cố sự đoàn kết nhất trí trong Đảng và ngoài quần chúng, nhằm thúc đẩy việc phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ và chi bộ. Đại bộ phận số đảng viên được xử lý theo chỉ thị đã phấn đấu sửa chữa tốt, nhiều đồng chí đã lấy lại được uy tín với quần chúng, được tổ chức giao nhiệm vụ.

Về công tác phát triển đảng viên, trong các năm 1972 – 1974, Đảng bộ đã kết nạp được 91 đảng viên mới, trong đó có 12 đồng chí có trình độ đại học, 22 đồng chí trung cấp, 57 công nhân trực tiếp sản xuất. Số đảng viên mới hầu hết là công nhân trực tiếp sản xuất, trong đó công nhân kỹ thuật chiếm 80%.

Công tác tổ chức thời gian này tiếp tục được chú trọng, năm 1972, Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng đã tăng cường bổ sung 189 cán bộ trẻ và khỏe xuống cơ sở. Hầu hết cán bộ trên đã phát huy được vai trò lãnh đạo, chỉ đạo trong các đơn vị kinh tế. Năm 1973 – 1974 đã đề bạt được 284 cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo từ ủy viên ủy ban đến đội trưởng, trong đó có 249 đảng viên, 9 cán bộ nữ, 111 cán bộ khoa học kỹ thuật. Bên cạnh đề bạt, bồi dưỡng tại chức, các đơn vị đã mạnh dạn đưa một số cán bộ đi đào tạo bồi dưỡng ở các trường trung ương, nhằm đáp ứng đầy đủ lực lượng cán bộ thời gian tới. Trong Đảng đã tăng cường số cán bộ trẻ, nữ và cán bộ kỹ thuật vào các cấp ủy đảng, ngày càng đáp ứng vai trò lãnh đạo của Đảng ở cơ sở, trước hết là ở những chi bộ nhỏ.

Trong không khí Nhân dân tỉnh nhà đang sôi nổi thi đua đẩy mạnh sản xuất, quyết giành thắng lợi trong vụ đông xuân (1974 – 1975), tháng 10/1974, Đại hội đại biểu Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng lần thứ IX được tổ chức tại thành phố Vinh. Đại hội đã đề ra phương hướng cho nhiệm kỳ tới là: xác định rõ vị trí quan trọng của Đảng bộ đối với phong trào chung của tỉnh trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội và quốc phòng – an ninh cả trước mắt và lâu dài cán bộ, đảng viên, công nhân viên các cơ quan, ban, ngành cấp tỉnh phải làm tốt hai nhiệm vụ chiến lược, góp phần hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Phải chuyển tinh thần hy sinh chịu đựng gian khổ trong kháng chiến thành tinh thần sẵn sàng phát triển kinh tế.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành(22), Ban Chấp hành bầu đồng chí Hồ Xuân Phúc giữ chức vụ Bí thư, đồng chí Lê Nguyên Cát giữ chức vụ Phó Bí thư Đảng ủy.

Những tháng cuối năm 1974, thế và lực cách mạng miền Nam và cả nước đủ sức đập tan chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu, ta thực hiện mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Từ sau Đại hội Đảng bộ, Đảng ủy Cơ quan Dân Chính Đảng đã tiếp tục chỉ đạo các cơ sở đảng, các cơ quan, ban, ngành làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, động viên cán bộ, đảng viên, công nhân viên dốc sức hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn, thiết thực góp phần cùng cả nước tham gia vào nhiệm vụ giải phóng miền Nam.

Công tác chính trị tư tưởng được nâng lên một bước, hầu hết các cán bộ, đảng viên đều nâng cao được nhận thức tư tưởng, bồi dưỡng thêm ý chí chiến đấu, ý thức tự lực tự cường, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, từ đó ra sức quyết tâm phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ chính trị, góp phần tạo chuyển biến tốt đối với các phong trào của Đảng bộ. Gắn công tác tổ chức với công tác tư tưởng, tăng cường các nguyên tắc tổ chức, mở rộng dân chủ tập trung, phát huy tự phê bình, phê bình, củng cố thêm mối đoàn kết nội bộ, tăng cường công tác kiểm tra, quản lý đảng viên, hoàn thành căn bản nội dung của Chỉ thị số 192-CT/TW, nâng lên một bước công tác giáo dục đảng viên, làm cho tổ chức cơ sở đảng được trong sạch và vững mạnh hơn.

Thực hiện chỉ thị tuyển quân của Chính phủ, tháng 10/1974, Tỉnh ủy Nghệ An quyết định động viên Nhân dân toàn tỉnh hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân một lần cho cả năm 1974 và đợt đầu năm 1975 . Kết quả huy động huy động trên 10 ngàn tân binh, trong đó có hàng trăm công nhân viên chức các cơ quan Dân Chính Đảng nhập ngũ vào chiến đấu ở chiến trường.

Ngày 25/12/1974, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết Hội nghị lần thứ 23 về tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, đầu năm 1975, Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng chỉ đạo tổ chức học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ 23 gắn với đại hội các tổ chức cơ sở đảng. Đến tháng 10/1975, đã có 66 cơ sở tiến hành xong đại hội, chỉ còn một số đơn vị chưa đại hội như: Công ty Thực phẩm Công nghệ cấp I, Đơn vị Hải quan, Liên hiệp xã thủ công, Công ty May mặc, Điện, Vật liệu kiến thiết, Toà án, Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh,Đảng bộ Ty Thông tin – Văn hóa.

Thông qua đại hội, các tổ chức cơ sở đảng đã xác định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ của mình, đánh giá mặt mạnh, mặt yếu và đề ra phương hướng, mục tiêu, biện pháp cụ thể, đồng thời chú trọng thực hiện các nguyên tắc, phương châm xây dựng Đảng, phát huy tự phê bình và phê bình, mở rộng dân chủ, tăng cường tập trung, cải tiến chế độ sinh hoạt, mối quan hệ giữa cấp ủy, chuyên môn và các đoàn thể quần chúng được tăng cường chặt chẽ hơn. Công tác giáo dục đảng viên, tổ chức học tập thời sự, chính sách, văn hóa đi dần vào nền nếp. Nhiều cơ sở đảng từ sau đại hội đã có tiến bộ rõ rệt, đoàn kết, phấn khởi, khí thế đi lên, nhiệm vụ chính trị được đẩy lên bước mới.

Qua gần một năm triển khai Nghị quyết Hội nghị lần thứ 23 của Đảng đi vào cuộc sống, các cơ sở đảng trong Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng cũng đã phân biệt rõ hơn trách nhiệm lãnh đạo của tổ chức đảng trong xí nghiệp quốc doanh và các cơ quan hành chính sự nghiệp để thực hiện đúng chức năng của mình, song về mặt này, các cơ sở đảng chưa đúc rút được nhiều kinh nghiệm. Một số lệch lạc trước đây như cấp ủy không đi sâu để nắm và theo dõi sát việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, hoặc chưa thấy hết trách nhiệm tham gia làm công tác cán bộ trong cơ quan đã được phân tích và khắc phục dần. Những biểu hiện đảng viên chỉ biết lo làm công tác chuyên môn, coi nhẹ sinh hoạt và hoạt động công tác quần chúng cũng dần dần được khắc phục.

Thực hiện Thông tri số 297/TT-TW, ngày 20/4/1974 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, đến năm 1975, công tác quản lý đảng viên của Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng đã đi vào nền nếp. Đồng thời đã hoàn chỉnh dần hồ sơ đảng viên, hoàn thành cơ bản việc viết lại sơ yếu lý lịch 1, sao mẫu 2, riêng lý lịch đảng viên đã viết xong 60%. Các cơ sở cũng đã phát hiện, kiểm tra, xác minh những đảng viên khai sai ngày, tháng, năm sinh. Việc chuyển sinh hoạt đảng viên đã đi vào quy củ, hạn chế sai sót về thủ tục.

Qua thực hiện các nghị quyết và chỉ thị về công tác xây dựng Đảng, công tác kiểm tra kỷ luật Đảng được tiến hành thường xuyên và có chất lượng ngày càng cao. Những đảng viên làm trái với Điều lệ Đảng, pháp luật Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, sa sút về đạo đức, phẩm chất người đảng viên đã được kiểm tra, giáo dục và xử lý kỷ luật đúng mức.

Tháng 3/1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ trương động viên cao nhất lực lượng cả nước giải phóng Sài Gòn. Chấp hành chỉ thị của Trung ương Đảng, Tỉnh ủy Nghệ An chỉ đạo Ủy ban nhân dân tỉnh thành lập Ban Chỉ đạo chi viện chiến trường. Trưởng Ban Chỉ đạo là Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân, các ban viên hầu hết là cán bộ chủ trì các ban, ngành cấp tỉnh. Ban Chỉ đạo chịu trách nhiệm trước tỉnh chỉ huy, điều hành việc chi viện cao nhất cho chiến trường miền Nam. Khẩu hiệu: “Tất cả cho giải phóng miền Nam” được Nhân dân Nghệ An nhiệt liệt hưởng ứng. Từ thành thị đến nông thôn, đồng bằng ven biển đến miền núi, từ công, nông trường đến xí nghiệp, nhà máy, cơ quan, trường học,… ai ai cũng muốn đóng góp cao nhất sức lực, trí tuệ của mình cho thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Người người xuống đường tiếp vận, nhà nhà tham gia làm vận tải, mọi phương tiện vận tải từ thô sơ đến cơ giới đều được huy động vào nhiệm vụ bốc dỡ, vận chuyển hàng. Mọi người đều phấn đấu vận chuyển tăng cân, tăng chuyến, tăng tốc. Nhờ đó, những tháng đầu năm 1975, hàng giao cho mặt trận Khu 5 đạt 145%, mặt trận Nam Bộ đạt 169% kế hoạch. Trong không khí tưng bừng khẩn trương “một ngày bằng hai mươi năm” ngoài vũ khí đạn dược, phương tiện kỹ thuật quân sự, thuốc men, dụng cụ y tế,… Nghệ An còn cung cấp cho chiến trường miền Nam 6.000 tấn lương thực, 300 tấn thực phẩm và cho Nhà nước tạm vay

18.000 tấn lương thực chi viện chiến trường miền Nam. Cán bộ, đảng viên, công nhân viên các cơ quan Dân Chính Đảng cấp tỉnh và Nhân dân Nghệ An đã đóng góp to lớn công sức, trí tuệ cùng quân, dân cả nước mở cuộc tấn công “thần tốc, táo bạo, bất ngờ” đánh thẳng vào sào huyệt cuối cùng của địch bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Sau 55 ngày đêm chiến đấu quyết liệt, gian khổ và hào hùng, quân và dân ta đã làm tan rã hơn 1 triệu quân ngụy, xóa bỏ hoàn toàn bộ máy chính quyền tay sai Mỹ và buộc bộ máy cố vấn Mỹ tháo chạy về nước, giải phóng miền Nam, đưa sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, thống nhất đất nước của Nhân dân ta đi đến kết thúc trọn vẹn.

Thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử vào ngày 30/4/1975 có ý nghĩa lịch sử cực kỳ to lớn: “Mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang sử chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, đi vào lịch sử thế giới một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quốc tế và tính thời sự sâu sắc”(23). Tháng 5/1975, Nhân dân khắp các địa phương trong tỉnh cùng cả nước đã nô nức mở hội mừng chiến thắng vĩ đại của dân tộc.

Sau khi nước nhà thống nhất, thực hiện Nghị quyết số 245-NQ/ TW, ngày 20/9/1975 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng về việc bỏ cấp khu, hợp tỉnh, trong 2 ngày (24 – 25/10/1975), tại thành phố Vinh, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An và Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Tĩnh đã họp và ra Thông báo Đặc biệt về việc hợp nhất 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh thành tỉnh Nghệ Tĩnh.

Chú thích:

(1) Đợt I, đợt II của cải cách ruộng đất được thực hiện ở các tỉnh khác.

(2) Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 69 – 70.

(3) Ban Chấp hành Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh Nghệ An, Báo cáo thực hiện nhiệm vụ năm 1957. Hồ sơ số 64, phông I (54-75), lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Nghệ An.

(4) Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng lần thứ IV. Hồ sơ số 780, tr.56, lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Nghệ An.

(5) Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng lần thứ IV. Hồ sơ số 780, tr.56, lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Nghệ An.

(6) Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng lần thứ IV. Hồ sơ số 780, tr.56, lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Nghệ An.

(7) Nay là một phần tỉnh Quảng Ninh và Lạng Sơn.

(8) Tiêu chuẩn chi bộ 4 tốt: 1 – Lãnh đạo sản xuất và chiến đấu tốt. 2 – Chấp hành chính sách tốt. 3 – Chăm lo đời sống và công tác vận động quần chúng tốt. 4 – Làm tốt công tác phát triển Đảng.

(9) Quyết định số 65-CP, ngày 17/5/1961 của Hội đồng Chính phủ chia huyện Tương Dương thành 2 huyện lấy tên là huyện Kỳ Sơn (gồm 8 xã), huyện Tương Dương (gồm 9 xã). Quyết định số 52-CP, ngày 19/4/1963 chia 3 huyện Anh Sơn, Nghĩa Đàn, Quỳ Châu thành 7 huyện gồm: huyện Anh Sơn có 19 xã; huyện Đô Lương có 1 thị trấn, 32 xã; huyện Nghĩa Đàn có 1 thị trấn, 22 xã; huyện Tân Kỳ có 13 xã; huyện Quế Phong có 6 xã; huyện Quỳ Châu có 11 xã; huyện Quỳ Hợp có 13 xã.

(10) Trích Nghị quyết số 29 của Tỉnh ủy. Hồ sơ số 423, lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Nghệ

(11) Hướng dẫn tổng kết và tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng cơ sở đảng, đảng viên theo yêu cầu “4 tốt”, tr. 20. Hồ sơ lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Nghệ An.

(12) Văn kiện Đại hội Đảng bộ Dân Chính Đảng lần thứ VI, Hồ sơ số 423, lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Nghệ An.

(14) Đồng chí Chế Đình Hồng lúc này đang giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy Tương Dương. Thời kỳ đầu, Tỉnh ủy chỉ định đồng chí Hồ Xuân Phúc quyền Bí thư Đảng ủy Cơ quan Dân Chính Đảng.

(15) Trích Văn kiện Đại hội Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng lần thứ VII. Hồ sơ số 782, tr. 5 – 6, lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Nghệ An.

(16) Bác Hồ với quê hương Nghệ An, Nxb Nghệ An, 1997, tr.151.

(17) Lịch sử Đảng bộ Nghệ An, tập II, Nxb Nghệ An, 1995.

(18) Văn kiện Đại hội Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng lần thứ VIII, tr. 17. Hồ sơ 782, lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Nghệ An.

(19) Trích Văn kiện Đại hội Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng lần thứ VIII, tr.17, 20, 21. Hồ sơ số 782, lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Nghệ An.

(20) Đế quốc Mỹ huy động 200 máy bay B52 (bằng 1/2 số máy bay chiến lược của nước Mỹ); 400 máy bay chiến thuật (bằng 1/3 tổng số máy bay chiến thuật của Mỹ); 60 tàu chiến các loại của hạm đội. Theo sách 18 năm chống Mỹ, cứu nước thắng lợi, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1974, tr. 171.

(21) Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII được tổ chức từ ngày 15 đến 25/4/1972, tại xã Thượng Sơn, huyện Đô Lương.

(22) Đến nay, vẫn chưa có nguồn tư liệu xác định được số lượng và danh sách Ban Chấp hành Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng khóa IX.

(23) Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1967, tr. 5 – 6.