I. ĐẢNG BỘ TÁI LẬP, TIẾP TỤC THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG THEO ĐỊNH HƯỚNG “XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG VỮNG MẠNH GẮN VỚI XÂY DỰNG CƠ QUAN MẠNH, NGÀNH MẠNH” (1991 – 1995)
Trong những ngày tháng 9/1991, việc chia tách các cơ quan Đảng, đoàn thể, Công an, Quân sự, các cơ quan sự nghiệp (khoa học, y tế, giáo dục, văn hóa,…), các nông, lâm trường, xí nghiệp cho 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh được tiến hành khẩn trương. Từ tháng 9/1991, tỉnh Nghệ An đi vào hoạt động với tư cách là đơn vị hành chính mới. Kể từ đây, Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Nghệ An được tái lập và đi vào hoạt động trong điều kiện, hoàn cảnh của thời kỳ cách mạng mới.
Sau 5 năm thực hiện công cuộc đổi mới (1986 – 1991), đất nước ta đã giành được những kết quả quan trọng: tình hình chính trị từng bước được ổn định; nền kinh tế có nhiều bước phát triển, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, tốc độ lạm phát ngày càng được kiểm soát; đời sống Nhân dân từng bước được cải thiện; nền dân chủ ngày càng được phát huy; quốc phòng – an ninh được giữ vững, an ninh quốc gia được bảo đảm. Quân và dân Nghệ An đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp về cơ bản được xóa bỏ. Vấn đề lương thực khó khăn bấy lâu của Nghệ An đã được cải thiện một phần đáng kể.
Tuy nhiên, giai đoạn này, Nghệ An vẫn chưa thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội. Kinh tế tỉnh nhà vẫn mất cân đối lớn, lao động thiếu việc làm tăng, nhiều đơn vị sản xuất đình đốn, thua lỗ kéo dài. Trên các lĩnh vực văn hóa, xã hội có những mặt tiếp tục xuống cấp. Tình trạng tham nhũng, vi phạm pháp luật, kỷ cương và một số hiện tượng tiêu cực khác còn khá phổ biến. Những khó khăn, thử thách càng trở nên gay gắt khi tình hình quốc tế diễn biến bất lợi. Mỹ tiếp tục siết chặt chính sách bao vây cấm vận, sự biến động về chính trị ở Đông Âu, Liên Xô làm cho nhiều hiệp định kinh tế bị mất hiệu lực, nguồn viện trợ nước ngoài cho tỉnh bị cắt, các hợp đồng xuất nhập khẩu giữa Nghệ An với Liên Xô bị xóa bỏ. Sự hoang mang, dao động của những người cộng sản trên thế giới đã tác động không nhỏ đến tư tưởng, tình cảm của cán bộ, đảng viên và Nhân dân Nghệ An.
Ngoài những vấn đề chung nói trên, Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Nghệ An còn có đặc điểm riêng: thời kỳ này, Đảng bộ có nhiều tổ chức cơ sở đảng, cơ sở đoàn ở nhiều loại hình khác nhau từ cơ quan cấp tỉnh, các chi cục, đơn vị thuộc các sở, ngành, các đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp, cơ quan Trung ương. Đảng bộ gồm phần lớn là những chi bộ, đảng bộ đầu ngành, một số chi bộ, đảng bộ ở những đơn vị sản xuất kinh doanh. Cơ cấu đội ngũ đảng viên bao gồm những đồng chí cán bộ lãnh đạo quản lý, cán bộ chuyên viên nghiên cứu tham mưu và làm nhiệm vụ phục vụ hoặc sản xuất. Vì vậy, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chỉ đạo từ cơ quan đầu ngành tới tận cơ sở một cách trực tiếp. Có số cán bộ lãnh đạo quản lý tiếp cận nhanh với chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và của tỉnh, thuận lợi trong xây dựng Đảng về tư tưởng, tổ chức gắn với nhiệm vụ chính trị. Tuy nhiên, cơ cấu tổ chức và đội ngũ đảng viên của Đảng bộ cũng phản ánh tính phức tạp và khó khăn trong chỉ đạo nhiệm vụ xây dựng Đảng. Đảng viên chịu quản lý của hai cơ quan: là cơ quan quản lý cán bộ và tổ chức đảng quản lý đảng viên. Tổ chức công đoàn trong các cơ quan đơn vị trực thuộc nhiều đầu mối khác nhau.
Ban Chấp hành Đảng bộ Các cơ quan tỉnh là một cấp trong hệ thống tổ chức đảng, nhưng lại không có cơ quan chính quyền, tổ chức kinh tế đồng cấp như cấp huyện, thành, thị,…
Chủ trương của Đảng trong thời kỳ cách mạng mới là, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo ra thời cơ thuận lợi mở đường để từng bước đưa kinh tế – xã hội đất nước sớm thoát khỏi khủng hoảng. Chủ trương đó đòi hỏi sự đổi mới cả hệ thống chính trị và tác động trực tiếp đến sự đổi mới trong việc xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước cũng như việc xác định chức năng nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng trong các cơ quan đó. Sự đổi mới ấy, đồng thời một mặt khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, mặt khác đòi hỏi Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn để ngang tầm với nhiệm vụ lịch sử mà công cuộc đổi mới đất nước đặt ra.
Ngay sau khi ổn định việc tách Đảng bộ, Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ Các cơ quan tỉnh đã chỉ đạo các cơ sở đảng quán triệt cho cán bộ, đảng viên những nhiệm vụ trước mắt cần tập trung giải quyết, trong đó phải: Tăng cường công tác tư tưởng, tổ chức tốt cho cán bộ, đảng viên, công nhân viên học tập Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, làm cho mọi người thấu suốt hơn nữa các quan điểm, nguyên tắc đổi mới của Đảng, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, khắc phục tư tưởng hoài nghi, dao động trước những khó khăn trước mắt về đời sống và những diễn biến phức tạp ở Đông Âu và Liên Xô, cảnh giác với mọi âm mưu phá hoại của các thế lực chống chủ nghĩa xã hội.
Mặt khác, được sự quan tâm của Tỉnh ủy, Ban Chấp hành Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Nghệ An đã tích cực chuẩn bị cho Đại hội đại biểu lần thứ XIII (vòng 2). Ngày 24/2/1992, Đại hội đại biểu Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Nghệ An lần thứ XIII (vòng 2) được tổ chức tại thành phố Vinh, với sự tham dự của 204 đại biểu, thay mặt cho 2.100 đảng viên sinh hoạt ở 60 cơ sở đảng.
Sau khi đánh giá tình hình hoạt động của Đảng bộ trong nhiệm kỳ qua, trên cơ sở quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, Đại hội đã quyết định phương hướng, nhiệm vụ tổng quát của Đảng bộ 1992 – 1995 là: “Phát huy những kết quả và kinh nghiệm của Đảng bộ vừa qua, thấu suốt và quyết tâm đưa Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII vào cuộc sống. Lấy đội ngũ đảng viên và cán bộ, công nhân viên là mục tiêu và động lực trực tiếp, chi bộ là khâu trung tâm, đổi mới và chỉnh đốn Đảng tiếp tục quan điểm “Xây dựng Đảng bộ vững mạnh gắn với xây dựng cơ quan mạnh, ngành mạnh,… đóng góp tích cực và có hiệu quả, đưa Nghệ An thóat khỏi tình trạng yếu kém và có bước phát triển”(1).
Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 21 ủy viên. Tại phiên họp đầu tiên, Ban Chấp hành bầu đồng chí Trương Công Anh giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy, đồng chí Nguyễn Văn Thành giữ chức vụ Phó Bí thư Đảng ủy.
Để cụ thể hóa chủ trương xây dựng Đảng bộ vững mạnh gắn với xây dựng cơ quan, đơn vị mạnh, ngành mạnh theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII, ngay sau Đại hội, việc cụ thể hóa chủ trương xây dựng Đảng bộ vững mạnh gắn với xây dựng cơ quan, đơn vị mạnh, ngành mạnh được toàn Đảng bộ tập trung triển khai thực hiện. Mỗi tổ chức cơ sở cũng như toàn Đảng bộ đã xác định, phải tập trung lãnh đạo việc thực hiện nhiệm vụ chính trị (chuyên môn) và nhiệm vụ tổ chức cơ quan, đơn vị. Từ đó, tạo bước ngoặt quan trọng trong quá trình đổi mới về công tác xây dựng Đảng cùng với đổi mới cả hệ thống chính trị, nhất là tác động trực tiếp đến sự đổi mới trong việc xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước cũng như việc xác định chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng trong các cơ quan đầu ngành cấp tỉnh. Sự đổi mới này, một mặt khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, mặt khác đòi hỏi Đảng phải tự đổi mới, phải tự chỉnh đốn để ngang tầm với nhiệm vụ lịch sử mà công cuộc đổi mới đất nước đặt ra.
Đối với các cơ quan sở, Đảng bộ Các cơ quan tỉnh đã hướng vào việc chuyển dần sang chức năng quản lý nhà nước, trước hết phải nhận thức, xác định lại chức năng, nhiệm vụ của cơ quan. Đối với các đơn vị sự nghiệp, các ngân hàng đã tập trung lãnh đạo việc xây dựng, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu, chỉ tiêu được cấp trên giao. Lãnh đạo việc tinh giản biên chế, xây dựng các quy chế điều hành, quy chế quản lý trong các cơ quan đơn vị.
Sau khi có các quy định số 49, 51, 54 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về chức năng, nhiệm vụ của các loại hình tổ chức cơ sở đảng cơ quan, thì chủ trương xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh gắn với xây dựng cơ quan mạnh, ngành mạnh, phải tập trung lãnh đạo nhiệm vụ chính trị (chuyên môn) của Đảng bộ được khẳng định. Vì vậy thời gian này, có nhiều cơ sở đảng mạnh dạn vươn lên, từng bước chủ động lãnh đạo việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và tổ chức của cơ quan, đơn vị.
Đảng bộ xác định, việc nâng cao chất lượng đảng viên gắn với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ là một nội dung để đổi mới và chỉnh đốn Đảng, đó vừa là mục tiêu vừa là giải pháp để phát huy vai trò hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở đảng. Để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng đảng viên và tổ chức đảng ở Đảng bộ Các cơ quan tỉnh, sau khi Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VII) về đổi mới và chỉnh đốn Đảng ra đời, ngày 4/11/1993, thay mặt Ban Chấp hành Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Nghệ An, đồng chí Trương Công Anh – Bí thư Đảng ủy đã ký ban hành Nghị quyết số 09-NQ/ĐUK về nâng cao chất lượng đảng viên. Quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ(2) các cấp, nhiều cơ sở đảng đã cùng với lãnh đạo ngành xây dựng và thực hiện Đề án “Chống tụt hậu của cơ quan, của ngành gắn với nâng cao chất lượng đảng viên, chất lượng công chức”. Từ đó một mặt phát huy vai trò của từng đảng viên, mặt khác bước đầu phát huy tác dụng của tổ chức đảng để hoàn thành nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị. Đảng bộ đã coi trọng đúng mức việc nâng cao trình độ lý luận chính trị, năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên, công nhân viên trong các cơ quan, đơn vị. Tổ chức tốt việc quán triệt các nghị quyết của Trung ương Đảng, Đảng bộ tỉnh và Đảng bộ Các cơ quan tỉnh, tạo sự nhất trí cao trong đội ngũ cán bộ, đảng viên về nhận thức, tư tưởng, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Thông tin kịp thời các vấn đề về thời sự trong nước và quốc tế theo ngạch chính thống. Phần lớn đảng viên, cán bộ đã tích cực tham gia các lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước, kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, tin học và ngoại ngữ,…
Để xây dựng Đảng bộ vững mạnh, nâng cao chất lượng đảng viên hiệu quả, ngày 18/11/1994, Ban Chấp hành Đảng bộ Các cơ quan tỉnh tiếp tục ban hành Nghị quyết số 16 về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Đây là giải pháp hiệu quả để chỉ đạo thực hiện tốt công tác tư tưởng, tổ chức, vai trò của tổ chức Đảng trong cơ quan nhằm đảm bảo ý thức tổ chức kỷ luật của Đảng; đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập hợp được trí tuệ, sáng tạo và trách nhiệm của đảng viên. Nâng cao chất lượng đảng viên, chất lượng sinh hoạt chi bộ còn là phương thức ưu việt trong việc giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức lối sống, lập trường chính trị, năng lực và hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ, đảng viên; phát hiện, bồi dưỡng và tạo nguồn lực cán bộ, tăng nguồn lực cho Đảng.
Tháng 1/1995, sau khi Trung ương ban hành Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 8 (khóa VII) về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính, Đảng bộ Các cơ quan tỉnh đã lãnh đạo việc triển khai xây dựng Đề án cải cách hành chính ở từng cơ quan, đơn vị. Đây được xem là vấn đề quan trọng trong giải quyết yêu cầu bức bách của Nhân dân, đáp ứng những đòi hỏi thuộc về việc quản lý, điều hành nội bộ cơ quan, góp phần giúp các ngành xác định rõ và đúng hơn chức năng, nhiệm vụ của đơn vị, của từng ban, phòng; cũng như chức trách cụ thể của mỗi công chức, viên chức, xây dựng các hệ thống quy chế cụ thể. Đồng thời, việc bồi dưỡng nâng cao năng lực của công chức nhà nước được nhận thức đúng đắn hơn, triển khai một cách tự giác hơn, nên đã có tác dụng thiết thực. Phương châm xuyên suốt được Đảng bộ đặt ra trong thời gian này, đó là: lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ tổ chức của cơ quan, đơn vị là điều kiện, yếu tố cơ bản nhất để khẳng định vai trò “hạt nhân chính trị” của tổ chức cơ sở đảng; là tiền đề xây dựng cơ quan, đơn vị mạnh, ngành mạnh, tạo chuyển biến quan trọng cho sự phát triển của tỉnh trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng – an ninh trong những năm 1992 – 1996.
Quán triệt tinh thần chỉ đạo và hướng dẫn của Ban Thường vụ Đảng ủy, các cấp ủy đảng không dừng lại ở việc phổ biến các nghị quyết, chủ trương mà bắt tay vào xây dựng chương trình hành động, các đề án, có phân công, phân nhiệm rõ ràng hơn cho từng cấp ủy viên. Đồng thời, từng bước xử lý đúng và phù hợp các mối quan hệ giữa cấp ủy với ban cán sự đảng, đảng đoàn và thủ trưởng cơ quan. Các tổ chức cơ sở đảng cũng đã xây dựng và thực hiện hiệu quả bước đầu các nghị quyết, đề án. Việc phấn đấu trở thành tổ chức cơ sở đảng vững mạnh đã trở thành ý thức và nhận được sự quan tâm thường xuyên của hầu hết tổ chức cơ sở đảng. Đông đảo cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ đều nhận thức rõ: Đảng là tổ chức chính trị duy nhất lãnh đạo đất nước đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Muốn thế, Đảng phải tự đổi mới và tự chỉnh đốn. Sự đổi mới và chỉnh đốn ở Đảng bộ Các cơ quan tỉnh là tiếp tục thực hiện định hướng “Xây dựng đảng bộ (chi bộ) vững mạnh gắn với xây dựng cơ quan mạnh, ngành mạnh”, góp phần làm cho tỉnh mạnh. Toàn bộ công tác xây dựng Đảng, hoạt động của Đảng bộ Các cơ quan tỉnh phải bắt nguồn từ đó và trở lại phục vụ cho định hướng đó. Đó cũng là thước đo về thực chất hiệu quả hoạt động của Đảng bộ Các cơ quan tỉnh. Đội ngũ đảng viên trong Đảng bộ không ngừng trưởng thành cả về số lượng, chất lượng và được trẻ hóa đội ngũ. Chất lượng của các cấp ủy đảng được tăng cường, phương thức hoạt động có sự đổi mới đúng hướng và có hiệu quả nhất định. Đảng bộ đã có nhận thức mới và cách làm mới trong việc lựa chọn và bầu cấp ủy thông qua các kỳ đại hội. Quyền và trách nhiệm của chi bộ, đảng bộ trong việc lựa chọn và bầu cử cấp ủy đã được thực hiện trên thực tế. Tình trạng áp đặt cũng như phân công, chia nhau làm cấp ủy đã được khắc phục. Các cấp ủy đã hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, bước đầu xây dựng được chương trình công tác và quy chế hoạt động. Công tác kiểm tra của cấp ủy cũng như hoạt động của ủy ban kiểm tra các cấp đã có tiến bộ.
Việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ có nhiều đổi mới về chất lượng. Kết quả số kỳ họp chi bộ gần đạt quy định mỗi tháng một kỳ. Tỷ lệ đảng viên dự sinh hoạt chi bộ chiếm từ 85% trở lên. Nội dung sinh hoạt bớt đơn điệu, nghèo nàn, đã biết chọn bàn những nhiệm vụ trọng tâm, then chốt, những vấn đề bức xúc, nổi cộm trong việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ chuyên môn, công tác tư tưởng, tổ chức cán bộ, cải cách hành chính, quy chế dân chủ. Việc chuẩn bị nội dung cho mỗi kỳ sinh hoạt của các cấp ủy cơ sở đã có sự chủ động và hầu hết đều được chuẩn bị chu đáo. Điều đó đã nâng cao hơn nữa trách nhiệm đảng viên trong công tác xây dựng Đảng. Tình trạng sinh hoạt chi bộ tùy tiện, nội dung sơ lược, số đảng viên tham gia sinh hoạt thất thường đã từng bước được khắc phục.
Chất lượng các cơ sở đảng ngày càng tăng lên. Tỷ lệ cơ sở đảng của Đảng bộ đạt trong sạch, vững mạnh từ 26,7% (năm 1992) tăng lên 44,4% (năm 1995). Số tổ chức cơ sở đảng yếu kém giảm từ 6,6% (năm 1992), xuống còn 3,9% (năm 1995). Trong lúc đó, tổ chức của toàn Đảng bộ từ 60 cơ sở đảng (năm 1992) tăng lên 81 cơ sở đảng (năm 1995). Công tác xây dựng Đảng giai đoạn này đã đi vào thực hiện nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ chuyên môn. Khắc phục dần tình trạng đảng vụ hành chính đơn thuần, từ lãnh đạo nhiệm vụ chính trị, công tác đảng có cơ sở làm tốt công tác tư tưởng, công tác tổ chức.
Việc phân tích chất lượng đảng viên được tiến hành có nền nếp, đã bước đầu xác định tiêu chuẩn cụ thể của từng loại đảng viên và có cách phân loại đảng viên phù hợp, nên việc phân loại chất lượng đảng viên thực chất hơn, phản ánh đúng thực tế chất lượng đảng viên.
Sự phối hợp giữa cấp ủy với lãnh đạo chuyên môn trong việc nâng cao chất lượng đảng viên gắn với nâng cao chất lượng cán bộ đã được chú ý và đang trở thành trách nhiệm chung. Chất lượng đảng viên được coi trọng, uy tín tổ chức đảng được nâng cao, vì vậy đã khơi dậy được ý thức phấn đấu quyết tâm trở thành đảng viên của quần chúng. Tổng số đảng viên được kết nạp trong những năm 1992 – 1996 là trên 400 đồng chí.
Việc xử lý những đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước đã được tiến hành nghiêm, kịp thời, có tác dụng làm trong sạch tổ chức đảng. Những năm 1992 – 1996, đã xử lý kỷ luật 91 đồng chí, trong đó số đảng viên giữ cương vị lãnh đạo quản lý chiếm 29%. Số đảng viên phải đưa ra khỏi Đảng bằng các hình thức chiếm 32% tổng số đảng viên bị xử lý kỷ luật.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ cấp ủy viên các cấp trong Đảng bộ ngày càng được quan tâm. Trong 3 năm (1992 – 1995), đã mở được 9 đợt, với trên 4.000 lượt đồng chí cấp ủy viên tham gia học tập công tác xây dựng Đảng. Nhờ đó, các đồng chí cấp ủy viên các cấp đã được trang bị thêm những kiến thức cần thiết về Đảng cũng như công tác xây dựng Đảng.
Công tác quần chúng của Đảng bộ Các cơ quan tỉnh thời gian này có tiến bộ rõ trên hai phương diện, củng cố tổ chức và tìm tòi những nội dung hoạt động phù hợp. Các tổ chức công đoàn cơ sở đã tiến hành đại hội, kiện toàn tổ chức. Hằng năm đều mở hội nghị công nhân viên chức để xây dựng chương trình công tác, quy chế hoạt động, động viên phong trào học tập để nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn. Đặc biệt, các hoạt động từ thiện, văn nghệ, thể dục, thể thao cũng được chú ý đúng mức.
Tổ chức Công đoàn và Đoàn Thanh niên đã có nhiều phong trào, chương trình hoạt động sôi nổi. Thông qua đó đóng góp tích cực vào việc bồi dưỡng những quần chúng ưu tú, giới thiệu cho tổ chức kết nạp vào Đảng.
Sau nhiều năm trăn trở, tìm tòi, tổ chức đảng trong các cơ quan cũng như Đảng bộ Các cơ quan tỉnh đã bước đầu lãnh đạo việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của các cơ quan, đơn vị và đạt được những thành tích rất đáng tự hào. Đó là bước chuyển đúng hướng, hợp quy luật của Đảng bộ. Thành tích vượt trội đó là một trong những yếu tố để khẳng định, đội ngũ cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ, trước hết là Ban Chấp hành Đảng bộ và cấp ủy các cơ sở đảng, không chỉ vững vàng về bản lĩnh chính trị mà còn thể hiện sự trưởng thành về trí tuệ, cách làm, từng bước “thích ứng” được với cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý mới. Thành tích đó cũng khẳng định, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Nghệ An lần XIII, Nghị quyết 09 (4/11/1993) và Nghị quyết số 16 (18/11/1994) của Ban Chấp hành Đảng bộ Các cơ quan tỉnh là đúng đắn trong thực tiễn hoạt động của Đảng bộ.
Nhờ những giải pháp đồng bộ như đã nêu trên, trong những năm 1992 – 1996, tuyệt đại bộ phận đảng viên của Đảng bộ đã giữ vững bản lĩnh chính trị, ý thức Đảng và trách nhiệm đảng viên được củng cố, kiến thức và năng lực được bổ sung thêm, phẩm chất lối sống có tiến bộ. Kết quả trong những năm 1994 – 1996, nhiều cơ quan, ban, ngành cấp tỉnh, đơn vị sự nghiệp đã vươn lên rõ rệt, được các bộ, ngành ở Trung ương và Ủy ban nhân dân tỉnh biểu dương, khen thưởng.
Tuy nhiên, do nhận thức và cách làm còn có những vướng mắc, lúng túng nhất định nên vai trò và tác dụng của tổ chức đảng vẫn còn hạn chế, hiệu quả và chất lượng lãnh đạo chưa cao. Một số tổ chức cơ sở đảng chưa nắm chắc các quy định của Ban Bí thư Trung ương Đảng về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của tổ chức đảng đối với nhiệm vụ chuyên môn. Chưa phân biệt ranh giới giữa lãnh đạo với quản lý điều hành, do đó có khi sa vào phạm vi quản lý điều hành hoặc ngược lại, chỉ còn đóng vai trò động viên thúc đẩy mà không đi sâu vào nội dung chính trị của nhiệm vụ chuyên môn, không tiến hành việc kiểm tra hoạt động chuyên môn theo đường lối, quan điểm của Đảng.
Nhìn chung, hoạt động của Đảng bộ Các cơ quan cấp tỉnh những năm 1992 – 1996 tuy còn những hạn chế, có mặt chưa vững chắc nhưng Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Các cơ quan tỉnh lần thứ XIII và Nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ đã được cụ thể hóa và tổ chức thực hiện một cách kịp thời, đạt hiệu quả cao.
II. LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC VÀ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CHÍNH TRỊ TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1996 – 2010)
Bước sang năm 1996, tình hình chung của đất nước và tỉnh nhà có nhiều chuyển biến lớn. Các cấp ủy, chính quyền và đoàn thể quần chúng tích cực đổi mới phương thức lãnh đạo điều hành và quản lý theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với sự quan tâm của Tỉnh ủy, Đại hội đại biểu Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Nghệ An lần thứ XIV(3) đã được diễn ra từ ngày 10 đến 12/4/1996, tại thành phố Vinh, với 204 đại biểu, đại diện cho gần 2.000 đảng viên sinh hoạt ở 59 đơn vị cơ sở đảng tham dự.
Đại hội đã đánh giá ưu, khuyết điểm hoạt động của Đảng bộ trong nhiệm kỳ 1992 – 1995 và rút ra một số bài học kinh nghiệm cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo thời gian tới.
Đại hội đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho nhiệm kỳ tới là: quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII; bám sát và phục vụ đắc lực cho việc thực hiện thắng lợi phương hướng, mục tiêu và nhiệm vụ đề ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII; tiếp tục bổ sung cụ thể hóa và thực hiện có chất lượng mới định hướng: “Xây dựng đảng bộ vững mạnh gắn với xây dựng cơ quan mạnh, ngành mạnh, tạo ra sức mạnh tổng hợp ngay từ mỗi cơ quan, đơn vị để Đảng bộ Các cơ quan tỉnh thực sự là một trong những trung tâm tác động làm chuyển biến tình hình chung của tỉnh. Tập trung lãnh đạo nhiệm vụ cải cách hành chính gắn với đổi mới và chỉnh đốn Đảng, góp phần xứng đáng vào việc xây dựng các cơ quan nhà nước, các cơ quan của các tổ chức chính trị, xã hội cấp tỉnh “vững mạnh, trong sạch, có hiệu lực và hiệu quả, bài trừ quan liêu tham nhũng”, xây dựng các tổ chức cơ sở đảng thực sự là hạt nhân chính trị trong mỗi cơ quan, đơn vị, Đảng bộ Các cơ quan tỉnh thực sự vững mạnh, trong sạch”(4).
Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 25 ủy viên. Tại phiên họp đầu tiên, Ban Chấp hành bầu đồng chí Trương Công Anh giữ chức vụ Bí thư, đồng chí Hồ Sỹ Đồng giữ chức vụ Phó Bí thư Đảng ủy.
Quán triệt và thực hiện tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Các cơ quan tỉnh lần thứ XIV, đặc biệt là thực hiện nghị quyết tăng cường hiệu quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị trong cơ quan; tiếp tục thực hiện có chất lượng mới định hướng xây dựng Đảng bộ vững mạnh gắn với xây dựng cơ quan mạnh, ngành mạnh, toàn Đảng bộ và mỗi tổ chức cơ sở đảng đã xác định rõ nội dung nhiệm vụ chính trị và phương thức tác động vào nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đã biết lựa chọn những nhiệm vụ chuyên môn trọng tâm, then chốt để tập trung trí tuệ của từng tổ chức đảng trong quá trình xây dựng và lãnh đạo thực hiện. Bằng việc phát huy tác dụng của tổ chức đảng, vai trò tiên phong, gương mẫu của đảng viên, nhất là đảng viên giữ cương vị lãnh đạo quản lý, hiệu quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị đã rõ nét hơn trước.
Những năm 1996 – 1997, hầu hết các tổ chức cơ sở đảng đã lấy việc tiến hành cải cách hành chính theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (khóa VII) làm nội dung trọng tâm để triển khai thực hiện. Nét nổi bật là, các cơ sở đảng đã chú ý nhiều đến việc chăm lo nâng cao chất lượng, trình độ mọi mặt cho cán bộ, đảng viên. Chăm lo lãnh đạo, xây dựng hệ thống quy chế cấp tỉnh, quy chế ủy ban kiểm tra, quy chế điều hành cơ quan. Cuối năm 1996, toàn Đảng bộ đã có 54/59 tổ chức cơ sở đảng có quy chế hoạt động của cấp ủy. Hầu hết các cơ quan đều có quy chế và điều hành hoạt động theo quy chế. Lĩnh vực cải cách thủ tục hành chính cả trong cơ quan và phạm vi của ngành đều có nhiều cố gắng.
Trước yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn, tính chất đặc thù của Đảng bộ và trên cơ sở mục tiêu xây dựng cơ quan mạnh, ngành mạnh, ngày 15/4/1997, Ban Chấp hành Đảng bộ Các cơ quan tỉnh ban hành Nghị quyết số 01-NQ/Đ.ủy về tăng cường sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng đối với nhiệm vụ chính trị của cơ quan. Nghị quyết được triển khai toàn Đảng bộ, trong đó chọn 5 đơn vị làm chỉ đạo điểm: Đảng bộ Sở Công nghiệp, Đảng bộ Sở Tư pháp, Đảng bộ Ban Quản lý Dự án 85, Chi bộ Nhà xuất bản, Chi bộ Ban Tổ chức Tỉnh ủy. Nghị quyết quán triệt tinh thần chỉ đạo các tổ chức cơ sở, xác định đúng vai trò hạt nhân chính trị của chi bộ, đảng bộ trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị; xác định phương thức phù hợp với đặc thù của ngành, cơ quan trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị; khắc phục tình trạng nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức trong cơ quan, xem đảng trong cơ quan chỉ làm công tác tư tưởng, coi nhẹ việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị. Ban Thường vụ Đảng ủy quán triệt tinh thần tập trung xây dựng các cơ quan cấp tỉnh vững mạnh trên cơ sở đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả vai trò hạt nhân chính trị của các tổ chức cơ sở đảng.
Nhờ sự chỉ đạo đó, nhận thức của các cấp ủy đảng, cán bộ, đảng viên về vai trò, vị trí của tổ chức cơ sở đảng trong việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị cơ quan ngày càng rõ hơn. Các tổ chức đảng đã từng bước thể hiện rõ vai trò lãnh đạo của mình đối với cán bộ, đảng viên, các phòng, ban chuyên môn và các đoàn thể chính trị, xã hội trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị cơ quan, đơn vị. Nội dung sinh hoạt chi bộ đã dành nhiều thời lượng để bàn và lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, trong đó tập trung bàn, lãnh đạo nhiệm vụ chuyên môn, thực hiện cải cách hành chính và quy chế dân chủ cơ quan. Gắn lãnh đạo việc thực hiện nhiệm vụ chính trị với lãnh đạo công tác tổ chức và cán bộ, công tác tư tưởng với nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên, chất lượng tổ chức đảng. Các cấp ủy tập trung lãnh đạo cán bộ, đảng viên, công chức tham mưu cho Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân đề ra các chủ trương, giải pháp trên các lĩnh vực; đồng thời, bám nhiệm vụ được giao để tham mưu lãnh đạo ngành và cơ quan xây dựng các chương trình, đề án, nhằm hoàn thiện nhiệm vụ chính trị cơ quan, đơn vị.
Trong 2 năm (1996 – 1997), đặc biệt là năm 1996, việc lãnh đạo công tác tư tưởng trong toàn Đảng bộ Các cơ quan tỉnh được tiến hành một cách mạnh mẽ và liên tục. Bắt đầu là việc học tập, nghiên cứu, thảo luận và góp ý xây dựng văn kiện đại hội Đảng các cấp. Tổ chức tốt phong trào thi đua lập thành tích cao nhất chào mừng đại hội Đảng các cấp. Sau kỳ đại hội đã có 100% tổ chức cơ sở đảng với trên 92% đảng viên, quần chúng được tham gia học tập quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Các cơ quan tỉnh lần thứ XIV, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII. Ban Thường vụ Đảng uỷ xác định việc xây dựng Đề án thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV là một trong những nội dung trọng tâm công tác của các cơ sở đảng trong toàn Đảng bộ. Đến hết năm 1997, có 100% tổ chức cơ sở đảng đã hoàn thành việc xây dựng đề án. Sinh hoạt báo cáo viên được duy trì đều đặn hằng tháng, số lượng các cơ sở tham gia khá đầy đủ và triển khai kịp thời cho cơ sở. Riêng năm 1996, đã mở được 4 lớp bồi dưỡng công tác Đảng cho các bí thư và cấp ủy viên cơ sở, 3 lớp với 332 học viên đối tượng phát triển Đảng, 2 lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cho 148 đảng viên mới. Đồng thời, phối hợp với Trường Đào tạo bồi dưỡng cán bộ tỉnh mở lớp Lý luận chính trị trung cấp tại chức cho đảng viên từ cấp phó phòng và tương đương trở lên.
Nhìn chung, tình hình tư tưởng đảng viên trong Đảng bộ Các cơ quan tỉnh thời gian này ổn định, yên tâm công tác. Đa số có ý thức vươn lên trong học tập, rèn luyện, phấn đấu trở thành đảng viên loại một, đảng viên xuất sắc. Việc xây dựng đơn vị trong sạch, vững mạnh trở thành nguyện vọng thường trực của đông đảo đảng viên.
Về công tác tổ chức cán bộ, Đảng bộ tập trung chỉ đạo các tổ chức cơ sở đảng nhận thức đúng vai trò quan trọng của mình, từ đó vươn lên chủ động nắm vững chức năng, nhiệm vụ để lãnh đạo, tham gia thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ, xây dựng tiêu chuẩn chức danh, bố trí, đào tạo bồi dưỡng, đề bạt, thuyên chuyển, thực hiện chế độ đãi ngộ đối với cán bộ. Gắn nâng cao chất lượng đảng viên với chất lượng cán bộ, nhiều tổ chức cơ sở đảng đã quan tâm, tạo điều kiện cho cán bộ các lớp đào tạo và đào tạo lại, tham gia các lớp học tin học, ngoại ngữ, quản lý nhà nước, lý luận chính trị,… Đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng được nâng cao trình độ về nhiều mặt, đồng thời ý thức kỷ luật, trách nhiệm công tác, phẩm chất đạo đức, lối sống cũng được trau dồi. Một bộ phận ngày càng đông, nhất là số đảng viên lãnh đạo quản lý, lực lượng trẻ có ý thức cao trong việc học tập, nâng cao trình độ năng lực công tác.
Chế độ sinh hoạt Đảng ngày càng đi vào nền nếp, đảm bảo quy trình từ khâu chuẩn bị, tổ chức hội nghị và ra nghị quyết triển khai thực hiện. Vai trò thủ trưởng và bí thư được đề cao.
Thời gian này, công tác phát triển Đảng được chú trọng. Sau Đại hội Đảng bộ Các cơ quan tỉnh lần thứ XIV, Đảng ủy đã chỉ đạo việc tổ chức tập huấn nghiệp vụ thống nhất quy trình, thủ tục kết nạp đảng viên mới. Năm 1996, Đảng bộ đã kết nạp được 112 đảng viên, chuyển chính thức cho 228 đồng chí, cấp thẻ Đảng cho 133 đồng chí.
Thi hành quyết định của Tỉnh ủy, trong năm 1996, Ban Thường vụ Đảng ủy Các cơ quan tỉnh đã chỉ đạo bàn giao 21 cơ sở, nâng cấp 45 chi bộ trực thuộc cơ sở với trên 1.500 đảng viên chuyển về Thành ủy Vinh và Đảng bộ Các doanh nghiệp nhà nước nghiêm túc, đúng quy định. Từ năm 1996 đến tháng 8/1997, Đảng bộ Các cơ quan tỉnh có 59 cơ sở đảng với 1.836 đảng viên, sinh hoạt tại 205 chi bộ.
Trong 2 năm (1996 – 1997), thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIV, Đảng bộ Các cơ quan tỉnh đã hoàn thành các chỉ tiêu chủ yếu do Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII đề ra. Qua đó, đóng góp tích cực vào thành tựu chung của tỉnh nhà. Đồng thời, rút ra được những bài học thiết thực để tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng trong thời kỳ tiếp theo.
Ngày 4/8/1997, Tỉnh ủy Nghệ An ra Quyết định số 484 về việc sáp nhập Đảng bộ Các cơ quan tỉnh và Đảng bộ Cơ quan Tỉnh ủy, thành lập Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng và chỉ định Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời gồm 28 đồng chí. Đồng chí Trương Công Anh giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy, đồng chí Hồ Sỹ Đồng giữ chức vụ Phó Bí thư Đảng ủy. Ngày 18/9/1997, Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ họp kỳ thứ nhất, tiến hành phân công nhiệm vụ cho các ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ, thông qua quy chế hoạt động, bầu ủy ban kiểm tra, thống nhất chương trình công tác tiếp nối.
Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng Nghệ An chính thức đi vào hoạt động kể từ ngày 1/10/1997. Đảng bộ có 67 cơ sở đảng hoạt động trong tất cả các cơ quan đầu não của hệ thống chính trị cấp tỉnh, với 2.172 đảng viên, 216 chi bộ nhỏ, phần lớn đều là cán bộ lãnh đạo quản lý, cán bộ chuyên viên tham mưu, chỉ đạo của các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội cấp tỉnh. Với cơ cấu tổ chức và cơ cấu đội ngũ đảng viên đó, Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng có tiềm năng lớn, có vị trí rất quan trọng trong việc góp phần xây dựng Nghệ An phát triển trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh.
Sau khi có quyết định thành lập Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng, Ban Chấp hành lâm thời đã nhanh chóng tiếp nhận các cơ sở đảng của 2 đảng bộ, kịp thời đi vào hoạt động và đã sớm nắm vững các chủ trương quan trọng của Trung ương Đảng, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh để vận dụng vào điều kiện cụ thể của Đảng bộ một cách sáng tạo.
Để ổn định tổ chức và đi vào hoạt động có hiệu quả, ngày 4/2/1998, Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng đã ban hành Kế hoạch số 19-CV/Đ.ủy về việc chỉ đạo Đại hội Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng lần thứ XV(5).
Được sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, từ ngày 14 đến 15/4/1998, Đại hội đại biểu Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng lần thứ XV được tổ chức tại thành phố Vinh, có 198 đại biểu, đại diện cho 2.172 đảng viên sinh hoạt tại 67 tổ chức cơ sở đảng về dự.
Đại hội đã kiểm điểm những ưu, khuyết điểm trong nhiệm kỳ qua và đề ra phương hướng tổng quát cho nhiệm kỳ 1998 – 2000 là:“Tiếp tục thực hiện định hướng “Xây dựng Đảng bộ vững mạnh gắn với xây dựng cơ quan mạnh, ngành mạnh, tạo ra sức mạnh tổng hợp từ mỗi cơ quan, đơn vị để góp phần xây dựng hệ thống chính trị cấp tỉnh vững mạnh, thông qua đó góp phần xứng đáng vào việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế – xã hội mà Đại hội lần thứ XIV Đảng bộ tỉnh đề ra. Lấy nhiệm vụ lãnh đạo xây dựng các cơ quan đầu não cấp tỉnh trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực, hiệu quả, bài trừ quan liêu tham nhũng và cải cách hành chính làm nhiệm vụ trung tâm; đổi mới và chỉnh đốn Đảng làm then chốt. Xây dựng các tổ chức cơ sở đảng thực sự là hạt nhân chính trị trong các cơ quan đầu não. Xây dựng Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng thật sự trong sạch vững mạnh”(6).
Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 25 ủy viên. Tại phiên họp đầu tiên, Ban Chấp hành bầu đồng chí Tô Hồng Hải giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy, đồng chí Hồ Sỹ Đồng giữ chức vụ Phó Bí thư Đảng ủy.
Để triển khai việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ 1998 – 2000, ngày 14/5/1998, Ban Thường vụ Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng đã ban hành Kế hoạch hướng dẫn số 16-HD/Đ.ủy về việc triển khai quán triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII; các nghị quyết 11, 12 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh; 3 pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng lần thứ XV. Ngày 16/5/1998, tại Thông báo số 18-TB/Đ.ủy, kết quả Kỳ họp thứ nhất của Ban Chấp hành và Ban Thường vụ Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng đã cụ thể các nội dung quan trọng: phân công trong Ban Thường vụ, Ban Chấp hành; bầu Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy; thông qua quy chế làm việc; quyết định một số vấn đề về tổ chức cơ sở(7) và một số chủ trương quan trọng để triển khai chủ trương giai đoạn mới.
Để thực hiện mục tiêu Nghị quyết Đại hội lần thứ XV, trên cơ sở nắm vững chủ trương, nghị quyết của các tổ chức đảng cấp trên, Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng và các cấp ủy cơ sở đã cụ thể hóa bằng chương trình hành động cụ thể, thiết thực. Đảng bộ xác định để thực hiện định hướng “Xây dựng Đảng bộ vững mạnh gắn với xây dựng cơ quan mạnh, ngành mạnh”, thì cải cách hành chính là nội dung quan trọng của nhiệm vụ chính trị trong suốt cả nhiệm kỳ 1998 – 2000, là việc làm thường xuyên của các cơ quan. Với quan điểm chỉ đạo đó, ngày 28/10/1998, đồng chí Tô Hồng Hải
– Bí thư Đảng ủy thay mặt Ban Chấp hành Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng đã ký ban hành Nghị quyết số 02-NQ/ĐU về việc lãnh đạo cải cách hành chính trong các cơ quan Dân Chính Đảng. Nghị quyết xác định mục tiêu: xây dựng các tổ chức cơ sở đảng vững mạnh, trong sạch để lãnh đạo thực hiện thành công sự nghiệp cải cách hành chính trong các cơ quan Dân Chính Đảng, nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống chính trị của từng cơ quan, đảm bảo vận hành thông suốt, bằng những thể chế và thủ tục hành chính hợp lý, tổ chức bộ máy phù hợp yêu cầu quản lý thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời xây dựng một đội ngũ công chức, viên chức có đủ trình độ, năng lực và phẩm chất để thực thi nhiệm vụ có hiệu quả, tận tụy phục vụ Nhân dân.
Lúc này, Ban Thường vụ Đảng ủy yêu cầu các tổ chức cơ sở xác định và đăng ký các nội dung lãnh đạo công tác cải cách hành chính. Trên cơ sở chủ trương của Ban Chấp hành Đảng bộ, các tổ chức cơ sở đã tập trung lãnh đạo hoàn thiện hệ thống chính trị cơ quan đủ sức thực hiện chức năng, nhiệm vụ một cách toàn diện; lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy và cán bộ cơ quan theo hướng tinh gọn, đáp ứng yêu cầu quản lý thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; lãnh đạo xây dựng đội ngũ công chức, viên chức đạt tiêu chuẩn của chức trách được phân công, tận tụy phục vụ Nhân dân. Tập trung xây dựng hoàn thiện quy hoạch cán bộ trong cơ quan và ngành một cách đồng bộ, nhất quán theo hướng đào tạo, đề bạt, luân chuyển theo quy hoạch. Hằng năm, các cấp ủy cơ sở đã lãnh đạo cơ quan, đơn vị xây dựng chương trình, đề án thực hiện nghị quyết, trong đó tập trung xây dựng quy chế hoạt động của phòng, ban, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận, từng cán bộ, công chức; các nội dung cải cách hành chính được cụ thể hóa vào chương trình công tác hằng năm. Định kỳ, chi bộ sinh hoạt xác định nhiệm vụ trọng tâm, bàn giải pháp và tổ chức thực hiện từng khâu, từng nội dung trong cải cách hành chính.
Tiếp đó, vào năm 1999, Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng tập trung chỉ đạo xây dựng đề án thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay; Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII) về công tác tổ chức cán bộ; các quy định số 54, 55 của Bộ Chính trị về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng và những điều đảng viên không được làm. Trong đó, chú trọng việc sắp xếp tổ chức bộ máy, xây dựng chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, xây dựng tổ chức cơ sở đảng mạnh, ngành mạnh. Tập trung cải cách thể chế, thủ tục hành chính; rà soát bổ sung quy chế nội bộ cơ quan, ngành.
Cùng với đó, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của Tỉnh ủy, sự gắn bó, phối hợp của các ban cán sự đảng, đảng đoàn, sự cố gắng của các cấp uỷ đảng và toàn thể đảng viên trong toàn Đảng bộ, hoạt động của Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng trong những năm 1998 – 2000 đã giành được những kết quả quan trọng.
Các cấp ủy cơ sở đảng đã có chuyển biến rõ trong xác định, lựa chọn, bám sát những vấn đề trọng tâm để xác định nội dung lãnh đạo và phương thức tác động phù hợp theo định hướng thống nhất của toàn Đảng bộ: Tập trung xây dựng các cơ quan cấp tỉnh vững mạnh, trên cơ sở đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả tham mưu, phục vụ quản lý điều hành của đội ngũ đảng viên, cán bộ công chức. Vai trò hạt nhân chính trị của các tổ chức cơ sở đảng đã được khẳng định rõ trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, nhất là nhiệm vụ chuyên môn.
Việc chỉ đạo thực hiện nghị quyết bước đầu đã tạo ra những chuyển biến mới về nhận thức và hành động trong toàn Đảng bộ. Nhiều tổ chức cơ sở đảng đã gắn cải cách hành chính với việc triển khai thực hiện 3 pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Nghị định số 71/1998/NĐ-CP, ngày 8/9/1998 về ban hành quy chế dân chủ trong hoạt động của cơ quan của Chính phủ. Nhiều cơ quan đơn vị đã sửa đổi được một bước thể chế thủ tục hành chính, rà soát văn bản pháp quy, hủy bỏ những văn bản không còn hiệu lực. Trên cơ sở soát xét lại chức năng, nhiệm vụ, tiến hành sắp xếp tổ chức bộ máy hợp lý hơn, bổ sung, sửa đổi, xây dựng mới quy chế nội bộ cơ quan. Nhờ vậy, hoạt động của một số cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan tham mưu giúp việc cấp ủy và đoàn thể nhân dân cấp tỉnh nhanh nhạy và hiệu quả hơn, giảm bớt phiền hà cho cơ sở, quyền dân chủ trong các cơ quan được mở rộng, góp phần thực hành tiết kiệm và chống tiêu cực, tham nhũng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức dần được nâng lên.
Công tác chăm lo đời sống của cán bộ, công nhân viên được quan tâm thường xuyên. Các chính sách, chế độ đã có đối với cán bộ, công nhân viên được thực hiện công khai, công bằng. Tổ chức được các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao lành mạnh, đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, công nhân viên được ổn định, nâng cao.
Việc không ngừng nâng cao niềm tin cho cán bộ, đảng viên đối với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước là trách nhiệm của Đảng uỷ Các cơ quan Dân Chính Đảng và các cấp ủy cơ sở đảng. Xác định rõ trách nhiệm đó, nhiều cấp ủy cơ sở đảng đã tổ chức triển khai học tập, quán triệt nghiêm túc chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Trung ương Đảng, Tỉnh ủy, Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng đến cán bộ, đảng viên. Có trên 80% tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ xây dựng, bổ sung chương trình, đề án thực hiện các nghị quyết của đảng các cấp.
Nét mới trong tổ chức quán triệt các nghị quyết của Đảng là, đề cao trách nhiệm của cấp ủy cơ sở, của đảng viên, lãnh đạo, nhất là bí thư, thủ trưởng cơ quan từ truyền đạt nghị quyết gắn liên hệ sát với tình hình thực tế của ngành, cơ quan, đơn vị. Ban Chấp hành Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng coi trọng việc quán triệt nghị quyết của đảng các cấp theo từng đơn vị cơ sở, đồng thời chú ý đúng mức kiểm tra, sơ kết việc thực hiện nghị quyết, rút kinh nghiệm, uốn nắn các biểu hiện lệch lạc trong quá trình thực hiện chung trong toàn Đảng bộ.
Trong những năm 1998 – 2000, Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng đã tập huấn cấp ủy viên cho 63 đồng chí, mở lớp bồi dưỡng kết nạp Đảng cho 449 đồng chí, chương trình lý luận chính trị phổ thông cho 379 đảng viên mới, phối hợp với Trường Chính trị tỉnh mở lớp trung cấp chính trị cho 151 học viên.
Hầu hết các tổ chức cơ sở đảng đã thường xuyên bảo đảm chế độ thông tin cho đảng viên về thời sự, chính sách. Đặc biệt, năm 2000, duy trì được 12 kỳ sinh hoạt báo cáo viên, trong đó có một kỳ sinh hoạt chuyên đề “Cội nguồn văn hóa Hồ Chí Minh” đạt chất lượng cao. Nhân kỷ niệm 70 năm ngày thành lập Đảng (3/2/1930 – 3/2/2000), 110 năm kỷ niệm ngày sinh của Bác Hồ vĩ đại (19/5/1890 – 19/5/2000), các cơ sở đảng đã chỉ đạo, tổ chức cho đảng viên tham gia cuộc thi “Tìm hiểu truyền thống 70 năm cách mạng vẻ vang của Đảng”. 100% tổ chức cơ sở đảng và đảng viên tham gia, trong đó có nhiều cơ sở có bài dự thi đạt chất lượng cao như: Đảng bộ Bưu điện tỉnh, Sở Công nghiệp, Chi cục Phát triển lâm nghiệp,… Qua đó góp phần nâng nhận thức, trách nhiệm của mỗi đảng viên trong cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII.
Nhìn chung, tình hình tư tưởng cán bộ, đảng viên có những chuyển biến tích cực, đại đa số cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong Đảng bộ có phẩm chất chính trị tốt, lối sống lành mạnh, tích cực học tập, nâng cao năng lực công tác, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao, có ý thức đầy đủ hơn trong đấu tranh chống lại các biểu hiện tiêu cực, góp phần giữ vững ổn định chính trị nội bộ.
Gắn với việc lãnh đạo thực hiện cải cách hành chính, nhiều cấp ủy cơ sở cùng với ban cán sự đảng, đảng đoàn, thủ trưởng cơ quan lãnh đạo soát xét, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, của từng phòng, ban, chức trách của từng cán bộ, công chức, viên chức. Để từ đó, từng bước sắp xếp lại tổ chức, điều chuyển, bố trí cán bộ phù hợp với năng lực, sở trường, tạo được sự đồng bộ, thống nhất vận hành theo quy chế nâng cao được hiệu lực, hiệu quả công tác.
Thời gian này, hoạt động của các công đoàn cơ sở và phong trào công nhân, viên chức có những chuyển biến tích cực. Hầu hết các đơn vị đã tổ chức tốt hội nghị cán bộ, công nhân viên chức hằng năm, xây dựng quy chế dân chủ, tham gia xây dựng và thực hiện đề án cải cách hành chính, tham gia hoạt động quản lý xây dựng cơ quan, đơn vị, phát động các phong trào thi đua yêu nước, tổ chức các hoạt động xã hội, góp phần giáo dục nâng cao quan điểm, lập trường, bản lĩnh giai cấp công nhân theo tinh thần Nghị quyết số 07 của Ban Chấp hành Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh về xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thực hiện nghị quyết của tổ chức đảng cấp trên, hướng dẫn của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh, Đoàn Thanh niên các cơ quan Dân Chính Đảng tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động phù hợp với đặc điểm của tổ chức đoàn và đoàn viên, thanh niên trong các cơ quan. Chăm lo giáo dục chính trị, truyền thống cách mạng, nâng cao ý thức, trách nhiệm của thanh niên đối với quê hương, đất nước, tạo điều kiện, môi trường cho thanh niên quản lý cơ quan, cống hiến trí tuệ và sức mình, góp phần xây dựng đơn vị và qua đó để trưởng thành.
Phong trào hoạt động của hầu hết các cơ sở Đoàn trong các cơ quan Dân Chính Đảng vẫn giữ được sôi nổi, chất lượng đoàn viên ngày càng được nâng cao. Tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Các cơ quan Dân Chính Đảng liên tục giữ được danh hiệu Đơn vị xuất sắc trong phong trào thi đua toàn tỉnh. Tổ chức Hội Cựu chiến binh ở trong một số cơ quan được thành lập, đi vào hoạt động và bước đầu đạt được những kết quả đáng khích lệ, góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh.
Về công tác tổ chức đảng, thực hiện chủ trương sắp xếp lại tổ chức bộ máy, trong năm 1999, Ban Thường vụ Đảng ủy đã chuyển giao 3 tổ chức cơ sở đảng sang Đảng bộ Các doanh nghiệp nhà nước, nâng cấp Chi bộ cơ sở Sở Công nghiệp thành Đảng bộ cơ sở, chuyển giao Chi bộ Cục Quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp về Đảng bộ Sở Tài chính. Đến ngày 30/12/1999, toàn Đảng bộ có 68 tổ chức cơ sở đảng, 39 đảng bộ, 29 chi bộ cơ sở, với 2.394 đảng viên(8).
Công tác quản lý đảng viên từng bước được gắn chặt hơn với công tác cán bộ, nhất là trong giáo dục nâng cao trình độ năng lực, đánh giá chất lượng công tác theo nhiệm vụ được giao. Thực hiện chủ trương giới thiệu đảng viên về tham gia sinh hoạt ở nơi cư trú, hầu hết các tổ chức cơ sở đảng đã phối hợp tốt với cấp ủy các địa phương trong quản lý, đánh giá, phân loại chất lượng đảng viên của đơn vị mình quản lý.
Đảng ủy chỉ đạo hoạt động của Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy theo kế hoạch được xây dựng từ đầu nhiệm kỳ và phân bổ thực hiện theo các năm. Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy đã chủ động phối hợp với Thanh tra tỉnh, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy và các ngành trong khối nội chính để thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra. Công tác kiểm tra đã đi vào trọng tâm, trọng điểm, nhất là những nơi có vụ việc nổi cộm, có dấu hiệu vi phạm, mất đoàn kết nội bộ. Công tác kiểm tra đã thực sự giúp cho cấp ủy đánh giá đúng thực trạng tình hình công tác xây dựng Đảng trong toàn Đảng bộ, uốn nắn, ngăn chặn kịp thời những thiếu sót, lệch lạc của các tổ chức đảng, đảng viên, nhất là đảng viên giữ cương vị lãnh đạo quản lý. Trong 3 năm (1998 – 2000), đã tiến hành 13 cuộc kiểm tra tổ chức cơ sở đảng, xử lý kỷ luật 4 tổ chức do buông lỏng lãnh đạo quản lý tài chính, quản lý cán bộ, đảng viên và việc thực hiện chế độ chính sách nhà nước. Trong số xử lý kỷ luật có 13 trường hợp cán bộ thuộc diện tỉnh quản lý.
Trên cơ sở quán triệt Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, ngày 21/12/1998, Tỉnh ủy ban hành Chương trình số 06-CT/TU; ngày 22/6/1999, tiếp tục ban hành Kết luận số 09-KL/TU về quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2). Căn cứ vào đặc điểm tình hình của Đảng bộ, ngày 22/7/1999, Ban Thường vụ Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng đã ban hành Kế hoạch số 117-KH/ĐU về việc triển khai và tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) trong Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng. Quá trình tổ chức đợt sinh hoạt chính trị thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh đã chỉ đạo các tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ bám sát yêu cầu, nội dung, phương pháp, bước đi và tiến độ của kế hoạch nhằm đánh giá đúng thực trạng về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên ở đơn vị mình. Hầu hết các tổ chức cơ sở đảng tổ chức sinh hoạt chính trị, liên hệ kiểm điểm tự phê bình và phê bình, tìm ra đúng ưu điểm, khuyết điểm của cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên. Qua thực hiện, điểm nổi bật của Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh là: Ban Thường vụ Đảng ủy luôn bám sát nghị quyết của tổ chức đảng cấp trên, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Đảng bộ bằng các nghị quyết của Ban Chấp hành theo đúng định hướng xuyên suốt: tập trung xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh, gắn với xây dựng cơ quan mạnh, ngành mạnh,… Trong nhiều năm, Ban Thường vụ Đảng ủy là một tập thể đoàn kết, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, luôn thể hiện là một tập thể có chính kiến, có bản lĩnh, lập trường, quan điểm vững vàng, nêu gương trong rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống của bản thân và gia đình; cùng với ý thức tự giác phấn đấu rèn luyện của mỗi đảng viên, Ban Thường vụ Đảng ủy với các cấp ủy cơ sở đảng luôn quan tâm chăm lo giáo dục chính trị, nâng cao nhận thức tư tưởng, tăng cường quản lý, đẩy mạnh công tác kiểm tra, nhờ đó mà đại bộ phận cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ giữ được phẩm chất, lối sống lành mạnh, nâng cao ý thức, trách nhiệm phục vụ Nhân dân. Đối với những sai phạm của cán bộ, đảng viên được kiểm tra xem xét, làm rõ, xử lý công minh, chính xác, kịp thời.
Cùng với đó, Ban Thường vụ Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng đã bám sát định hướng, từng bước tổng kết thực tiễn, bổ sung, hoàn thiện chủ trương, giải pháp, thường xuyên tranh thủ sự lãnh đạo của Thường trực Tỉnh ủy, chủ động phối hợp với các ban của Tỉnh ủy, ban cán sự đảng, đảng đoàn và thủ trưởng chuyên môn các cơ quan, đơn vị, tạo điều kiện thuận lợi cho các cấp ủy, các tổ chức đảng hoạt động ngày càng tốt. Duy trì đều đặn chế độ sinh hoạt, đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ; chuẩn bị và tham mưu nội dung sinh hoạt cho Ban Chấp hành, đồng thời tổ chức chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện, sơ kết, tổng kết kịp thời. Chăm lo giải quyết những vướng mắc từ cơ sở, nhất là đối với cơ sở yếu kém. Coi trọng sinh hoạt tự phê bình và phê bình, chăm lo củng cố, nâng cao chất lượng tham mưu của đội ngũ cán bộ cơ quan chuyên trách, quan tâm và thường xuyên tiến hành công tác kiểm tra, chăm lo nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban Kiểm tra, góp phần thúc đẩy việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng.
Đối với cấp ủy cơ sở đảng đã thể hiện rõ bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng và trung thành vào sự nghiệp đổi mới của Đảng. Thường xuyên nâng cao nhận thức chính trị, nắm và vận dụng chủ trương, nghị quyết cấp trên vào cơ quan, đơn vị, có ý thức trách nhiệm trước đảng viên, cán bộ, công nhân viên trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, xây dựng cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng cơ quan và tổ chức quần chúng vững mạnh. Quan tâm chăm lo giáo dục, nâng cao nhận thức chính trị cho đảng viên, cán bộ, công nhân viên, lãnh đạo đảm bảo tình hình tư tưởng, đoàn kết nội bộ.
Hầu hết các cấp ủy cơ sở thời gian này đều quan tâm chỉ đạo đổi mới nội dung sinh hoạt chi bộ, tăng cường sinh hoạt tư tưởng, tự phê bình và phê bình, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ. Coi trọng công tác quản lý, kiểm tra gắn với việc nâng cao trách nhiệm đảng viên, cán bộ, nhờ đó việc phân loại chất lượng đảng viên hằng năm chặt chẽ và chính xác hơn. Đại bộ phận các cấp ủy cơ sở giữ được phẩm chất lối sống của bản thân và gia đình, có ý thức rèn luyện giữ gìn và nêu gương mẫu mực trước đảng viên, quần chúng.
Trong quản lý và điều hành, các cấp ủy đã bám sát quy định của Trung ương Đảng để vận dụng cụ thể hóa vào cơ sở đảng của mình, từng bước nhận thức rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, phạm vi trách nhiệm lãnh đạo đối với mọi hoạt động của cơ quan. Thường xuyên tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy cấp trên, của ban cán sự đảng, đảng đoàn. Duy trì đều đặn chế độ sinh hoạt cấp ủy, đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, coi trọng tự phê bình và phê bình trong nội bộ, ý thức chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, sự hướng dẫn chỉ đạo của cấp trên nghiêm túc, đầy đủ, sơ kết, tổng kết kịp thời. Quan tâm công tác kiểm tra, củng cố nâng cao chất lượng chi bộ, chất lượng đảng viên, lãnh đạo nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành của cơ quan.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả nổi bật vqãn còn một số hạn chế. Việc quản lý, đánh giá tình hình các tổ chức cơ sở đảng, đảng viên vẫn còn tình trạng né tránh, thiếu kiên quyết, mang tính chung chung, tính chiến đấu chưa cao. Việc tổ chức thực hiện các mối quan hệ phối hợp theo quy chế chưa tốt, dẫn tới tác dụng, hiệu quả thấp, nhất là vai trò Ban Thường vụ tham gia vào chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh, tham gia vào quy trình đánh giá, bố trí, đề bạt, xử lý sai phạm của cán bộ, đảng viên diện Tỉnh ủy quản lý; chưa làm tốt vai trò trung tâm khâu nối các mối quan hệ để giải quyết những vấn đề về tư tưởng, ý thức trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ chính trị cũng như mối quan hệ trách nhiệm giữa các ngành,… Mặc dầu vậy, mỗi ủy viên thường vụ đều tự nhận thấy được phần trách nhiệm của mình trong thiếu sót chung nêu trên.
Quán triệt Chỉ thị số 54-CT/TW, ngày 22/5/2000 của Bộ Chính trị về đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội lần thứ IX toàn quốc của Đảng, Ban Thường vụ Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng đã khẩn trương chuẩn bị đề cương hướng dẫn chi tiết, chọn tổ chức cơ sở đảng để chỉ đạo đại hội điểm, sơ kết rút kinh nghiệm nhằm chỉ đạo trong toàn Đảng bộ.
Các cấp ủy cơ sở đảng đã phối hợp chặt chẽ với ban cán sự đảng, đảng đoàn, thủ trưởng cơ quan tổ chức tốt đại hội Đảng cơ sở nhiệm kỳ 2000 – 2003. Nhìn chung, hầu hết các tổ chức cơ sở đảng đã chuẩn bị tốt nội dung các báo cáo trình đại hội. Báo cáo chính trị đã đánh giá rõ ưu điểm, khuyết điểm của hoạt động ở cơ sở nhiệm kỳ qua; xác định rõ nguyên nhân, rút được bài học kinh nghiệm, đồng thời nêu rõ mục tiêu, giải pháp cụ thể, đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ đã đề ra cho nhiệm kỳ 2000 – 2003.
Bước sang năm 2000, năm bản lề chuyển giao thiên niên kỷ mới, sau 10 năm triển khai Chiến lược ổn định phát triển kinh tế – xã hội và 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (1986 – 2000), đất nước ta đạt nhiều thành tựu quan trọng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao, bình quân đạt 7,56%; cơ bản thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội. Kinh tế – xã hội Nghệ An tiếp tục phát triển trên một số lĩnh vực. Năng lực sản xuất được nâng lên, kết cấu hạ tầng được cải thiện, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo tiền đề cho bước phát triển thời kỳ Đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được cải thiện một bước. Tình hình chính trị tiếp tục ổn định, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Tuy nhiên, so với cả nước, kinh tế Nghệ An vẫn ở mức thấp, tốc độ phát triển chậm, vẫn là một tỉnh nghèo, sản xuất hàng hóa chưa phát triển, tích lũy từ kinh tế nội tỉnh chưa cao. Khu vực nông nghiệp đang chiếm tỷ trọng lớn, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP còn thấp. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, sức cạnh tranh yếu. Đời sống Nhân dân nhất là vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Lao động thiếu việc làm, không có việc làm ở mức cao. Tệ nạn xã hội tăng. Hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước còn thấp. Các cấp chính quyền từ xã đến huyện, tỉnh còn nhiều khuyết điểm và yếu kém, chưa thể hiện được đầy đủ bản chất nhà nước của dân, do dân, vì dân. Một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất, làm giảm lòng tin của Nhân dân đối với Đảng.
Trong bối cảnh lịch sử đó, Đại hội đại biểu Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng lần thứ XVI(9) đã được diễn ra từ ngày 24 đến 26/12/2000, tại thành phố Vinh, có 205 đại biểu đại diện cho 2.621 đảng viên sinh hoạt ở 70 tổ chức cơ sở đảng về dự Đại hội.
Đại hội đánh giá vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Thường vụ, Ban Chấp hành trong việc cụ thể hóa được nội dung Nghị quyết Đại hội lần thứ XV, lựa chọn nhiệm vụ trọng tâm, tổ chức chỉ đạo thực hiện một cách nghiêm túc có hiệu quả. Các cấp ủy đảng ngày càng nhận thức rõ hơn về vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng, phương thức hoạt động ngày càng được đổi mới. Vai trò của mỗi tổ chức cơ sở đảng cũng như toàn Đảng bộ được khẳng định: Tuy đang còn nhiều khuyết điểm hạn chế, nhưng hoạt động của Đảng bộ đã đóng góp vào những thành tựu đổi mới của tỉnh nhà, đồng thời qua hoạt động đã đúc rút được những kinh nghiệm thiết thực để tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, khẳng định vai trò, vị trí của một tổ chức đảng gồm những cơ quan đầu não cấp tỉnh, trực thuộc Tỉnh ủy để vươn lên làm tốt vai trò tham mưu trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh theo Nghị quyết Trung ương Đảng và của Đảng bộ tỉnh”(10).
Đại hội thảo luận và bổ sung báo cáo tổng hợp ý kiến của Đại hội cấp cơ sở tham gia vào Văn kiện của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIV trình Đại hội khóa XV; của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII trình Đại hội đại biểu toàn quốc khóa IX của Đảng.
Đồng thời đề ra phương hướng, nhiệm vụ chung cho nhiệm kỳ 2000 – 2005 là: “Tiếp tục thực hiện định hướng “Xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh gắn với xây dựng cơ quan mạnh, ngành mạnh, tạo ra sức mạnh ngay từ mỗi cơ quan, đơn vị để góp phần xây dựng hệ thống chính trị cấp tỉnh vững mạnh”. Tăng cường đoàn kết thống nhất, phát huy tiềm năng trí tuệ tập thể, nâng cao chất lượng tham mưu của mỗi cơ quan, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Lấy nhiệm vụ lãnh đạo cải cách hành chính, lãnh đạo thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong các cơ quan làm khâu đột phá; xây dựng, chỉnh đốn Đảng (theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) là then chốt, xây dựng các cơ sở đảng thực sự là hạt nhân chính trị trong các cơ quan, xây dựng Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng và tổ chức”(11).
Đại hội bầu 25 đồng chí vào Ban Chấp hành. Tại phiên họp đầu tiên, Ban Chấp hành Đảng bộ bầu đồng chí Trần Thị Nhung giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy, đồng chí Nguyễn Hữu Lậm giữ chức vụ Phó Bí thư Đảng ủy(12).
Đại hội Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng lần thứ XVI diễn ra thành công tốt đẹp, đã tạo dấu ấn chính trị quan trọng, chuyển Đảng bộ sang một thời kỳ phát triển mới: thời kỳ góp sức, góp trí cùng Nhân dân cả tỉnh phát huy truyền thống văn hóa và cách mạng của dân tộc, quê hương, khai thác mạnh nội lực, thu hút, sử dụng tốt ngoại lực, dân chủ, đoàn kết, tiến công, tăng tốc; nhanh chóng đưa Nghệ An thoát khỏi tỉnh nghèo, sớm trở thành một tỉnh phát triển kinh tế khá và gương mẫu như mong muốn của Bác Hồ và Trung ương Đảng.
Để nghị quyết thực sự đi vào thực tiễn cuộc sống, tại Kỳ họp thứ 2 (3/2001) Ban Chấp hành Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng đã triển khai nội dung thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng lần thứ XVI. Tại kỳ họp Ban Thường vụ tháng 5/2001, Ban Thường vụ Đảng ủy đã thảo luận quyết định nội dung Hội thảo chuyên đề “Mối quan hệ phối hợp giữa Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng với ban cán sự đảng, đảng đoàn, thủ trưởng ban ngành cấp tỉnh”.
Ngày 26/3/2001, thay mặt Ban Thường vụ, đồng chí Trần Thị Nhung – Bí thư Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng đã ký ban hành Chương trình hành động số 45/Đ.ủy về việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XV và Nghị quyết đại hội Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng nhiệm kỳ 2001 – 2005(13). Ban Thường vụ Đảng ủy chỉ đạo: Các cấp ủy đảng phối hợp chặt chẽ với ban cán sự đảng, đảng đoàn, thủ trưởng cơ quan để lãnh đạo tốt việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, trọng tâm là nhiệm vụ chuyên môn, nhất là tham mưu xây dựng cơ chế, chính sách, chương trình, dự án, đặc biệt là đề án phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị theo tinh thần Nghị quyết số 17 (khóa XIV), ngày 20/9/2000 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Tiếp tục lãnh đạo thực hiện cải cách hành chính theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII), Trung ương 3 (khóa VIII), Nghị quyết số 02 của Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng. Trong đó, chú trọng cải cách hành chính ở các lĩnh vực tác động trực tiếp đến đời sống Nhân dân; sắp xếp bộ máy tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực chuyên môn, có phẩm chất đạo đức; gắn thực hiện cải cách hành chính với thực hiện quy chế dân chủ; đẩy mạnh xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. Tổ chức học tập và xây dựng chương trình hành động thực hiện hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Nhất là nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2001 – 2005. Phát huy vai trò lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng, của đội ngũ đảng viên trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ. Tăng cường công tác kiểm tra, lãnh đạo tốt việc giải quyết nhanh, gọn dứt điểm đơn thư tố cáo, khiếu nại có kết luận rõ ràng, xử lý nghiêm minh những trường hợp sai phạm, nhằm xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh.
Sau 6 tháng chỉ đạo thực hiện Chương trình hành động số 45, các cấp đã cụ thể hóa triển khai có hiệu quả bước đầu trong toàn Đảng bộ. Tuy nhiên, hiệu quả chưa thực sự đồng đều, việc kiểm tra tiến độ thực hiện chưa tốt. Để kịp thời khắc phục, phát huy cao nhất mục tiêu đề ra, ngày 25/9/2001, Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng tiếp tục bổ sung Chương trình hành động số 152-BSCTHĐ/Đ.ủy chỉ đạo các cơ sở đảng soát xét lại các chỉ tiêu, các biện pháp, giải pháp, những việc đã làm được, chưa làm được trong thực hiện nghị quyết đại hội Đảng các cấp, các chỉ tiêu kinh tế – xã hội liên quan đến nhiệm vụ ngành mình để có biện pháp chỉ đạo, các bước điều chỉnh, bổ sung hợp lý, kịp thời. Tập trung cải cách hành chính trên cả 3 mặt: thể chế, thủ tục hành chính, tổ chức bộ máy và chất lượng đội ngũ công chức theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII), Nghị quyết số 02 của Đảng ủy; thực hiện quy chế dân chủ, tinh giản biên chế một cách kiên quyết nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có chuyên môn cao, phẩm chất đạo đức tốt; rà soát lại toàn bộ hệ thống quy chế nội bộ, kịp thời sửa đổi hoàn thiện để phù hợp với tình hình.
Phát huy những thuận lợi, khắc phục khó khăn, vươn lên từng bước tự đổi mới mình, trong những năm 2001 – 2005, các tổ chức cơ sở đảng trong toàn Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng đã bám mục tiêu của nghị quyết đại hội đảng các cấp, lựa chọn những nội dung trọng tâm để lãnh đạo, nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị. Tập trung nhất là việc nâng cao chất lượng tham mưu, hiệu quả quản lý điều hành, năng lực chỉ đạo, phục vụ của các cơ quan, sở, ban, ngành cấp tỉnh. Tổ chức triển khai thực hiện các chương trình, đề án, dự án, công trình trọng điểm theo tinh thần Nghị quyết số 17 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy khóa XIV, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV.
Từ chức năng, nhiệm vụ được giao, các ban, ngành chủ động tham mưu cho Ban Thường vụ, Ban Chấp hành ra các chỉ thị, nghị quyết, thông tri về phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh, thực hiện nếp sống văn hóa, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các đoàn thể nhân dân,… Tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành, sửa đổi, bổ sung nhiều cơ chế, chính sách kinh tế – xã hội quan trọng nhằm khai thác nội lực, thu hút đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống Nhân dân. Đảng ủy ban hành Nghị quyết số 01 về giúp đỡ các xã khó khăn(14). Chất lượng các đề án, chủ trương, cơ chế, chính sách của các ban, ngành tham mưu được nâng cao. Công tác điều hành, chỉ đạo của các ban, ngành đã có những đổi mới, hướng về cơ sở, phân công chỉ đạo cụ thể từng nội dung, chương trình nên đạt kết quả tốt. Các cơ quan, đơn vị đã tăng cường chức năng quản lý nhà nước, chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện các chương trình, đề án, chủ trương, nghị quyết ở cơ sở, đẩy mạnh các cuộc vận động, phong trào thi đua phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu, kế hoạch được giao. Cán bộ, đảng viên Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng đã góp phần tích cực trong thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội những năm 2001 – 2004 của tỉnh. Tình hình kinh tế – xã hội chuyển biến toàn diện, hầu hết các chỉ tiêu đều đạt và vượt kế hoạch. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tăng trưởng GDP năm 2002 là 11%, năm 2003 là 11,36%, năm 2004 khoảng 10,15%.
Trong quá trình lãnh đạo, Ban Thường vụ Đảng ủy thường xuyên bám sát nhiệm vụ chính trị từng ngành, từng đơn vị để cụ thể hóa nghị quyết đại hội Đảng các cấp. Ngày 5/6/2002, Ban Chấp hành Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng ban hành Chương trình hành động số 376-CT/Đ.ủy, xác định phương hướng: đổi mới phương pháp, cách làm để nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, tạo sự nhất trí cao trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội trên cơ sở đường lối Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đề ra. Tích cực vươn lên trong học tập để nâng cao năng lực, sáng tạo trong công tác chuyên môn, tự lực, tự cường, đoàn kết thống nhất, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh nhà vì mục tiêu dân giàu, tỉnh mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Từ đó, Đảng bộ đã chỉ đạo các cơ sở đảng căn cứ các nội dung Nghị quyết Trung ương 5, Nghị quyết số 11-NQ/ TU, ngày 24/4/2002 của Tỉnh ủy để tham mưu lãnh đạo ngành trong việc lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp ủy, chuyên môn đối với sự phát triển nông nghiệp nông thôn thời gian tới. Nhờ chủ trương sâu sát của Đảng ủy nên các ngành đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần vào kết quả chung của tỉnh. Sản xuất nông nghiệp được mùa toàn diện cả cây lương thực, cây công nghiệp và cây ăn quả, riêng năm 2004, nông nghiệp thắng lợi lớn, đạt 1,08 triệu tấn; trồng rừng, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản phát triển khá; thu ngân sách vượt chỉ tiêu kế hoạch Hội đồng nhân dân tỉnh giao, riêng năm 2004 thu ngân sách đạt 1.550 tỷ đồng. Lĩnh vực văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ. Thể dục, thể thao, y tế, đời sống văn hóa cơ sở tiến bộ rõ nét. Quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, dân chủ được mở rộng, đời sống Nhân dân cơ bản ổn định. Đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ được cải thiện từng bước và ngày càng được nâng cao.
Những năm 2001 – 2005, Ban Thường vụ Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng đã chỉ đạo các cơ sở đảng tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính gắn với thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Các cơ quan đã tập trung rà soát, bổ sung, sửa đổi văn bản quy định, quy chế phù hợp và dân chủ hơn. Coi trọng việc tham mưu củng cố, kiện toàn, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước thuộc phạm vi quản lý của ngành, phối hợp với các ngành liên quan thực hiện chức năng quản lý các doanh nghiệp trên địa bàn. Một số cơ quan đã tiếp tục cải cách các thủ tục liên quan đến công dân theo cơ chế “Một cửa”. Đến hết tháng 10/2004, đã có 7 ngành và Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện cơ chế “Một cửa” trong giao dịch, hạn chế dần tệ quan liêu, gây phiền hà trong các cơ quan, đơn vị. Nhiều cơ quan, đơn vị đã rà soát bổ sung chức năng, nhiệm vụ của các phòng, ban, bộ phận, các chức danh công chức, tiến hành sắp xếp lại tổ chức, bộ máy theo hướng giảm bớt các đầu mối. Đội ngũ cán bộ công chức được sắp xếp, bố trí, luân chuyển phù hợp với năng lực chuyên môn và quy hoạch cán bộ của cơ quan, ngành.
Việc thực hiện quy chế dân chủ theo Nghị định số 71/1998/NĐ/ CP, ngày 8/9/1998 được chú trọng. Cấp ủy các cơ sở đảng đã lãnh đạo chuyên môn phối hợp với tổ chức công đoàn mở hội nghị cán bộ công chức hằng năm đúng quy trình, thời gian với nội dung thiết thực. Do vậy, tình hình nội bộ các cơ quan chuyển biến tích cực, theo hướng dân chủ, đoàn kết, hiệu quả điều hành cũng như hiệu suất công tác của cán bộ, công chức được nâng lên. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ, giữ gìn an ninh và trật tự an toàn trong các cơ quan được đảm bảo. Việc giữ gìn hồ sơ, tài liệu, bảo vệ bí mật của Đảng, Nhà nước được thực hiện tốt.
Đồng thời, thực hiện tổng kết về công tác tổ chức, cán bộ theo Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII); Nghị quyết Trung ương 3, Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII); triển khai Nghị quyết số 14 của Ban Chấp hành Đảng bộ về công tác tổ chức, cán bộ, các cấp cơ sở đảng đã chủ động thực hiện Đề án sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế đã được tỉnh phê duyệt. Hầu hết các cấp ủy cơ sở đã xây dựng được chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 14 của Ban Chấp hành Đảng bộ về công tác tổ chức, cán bộ. Nhờ đó, trong những năm 2001 – 2004, việc sắp xếp, điều chỉnh tổ chức bộ máy, quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ trì, sử dụng, đề bạt, luân chuyển, thu hút cán bộ đã thể hiện rõ tính hiệu quả. Công tác đào tạo cán bộ có tiến bộ rõ rệt. Ngoài các lớp bồi dưỡng ngắn hạn, cơ sở đã chọn, cử hàng trăm cán bộ đi học trung cấp, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ. Trong năm 2000, các tổ chức cơ sở đảng đã cử 233 cán bộ đi học các lớp đào tạo bồi dưỡng, so với năm 1999 tăng 12,5%. Bên cạnh đó, Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng cũng đã phối hợp với Trường Chính trị tỉnh mở mỗi năm một lớp trung cấp chính trị cho các đảng viên là cán bộ chuyên viên của các cơ quan trực thuộc Đảng bộ.
Các cấp ủy cơ sở đã từng bước phát huy vai trò và trách nhiệm của mình trong lãnh đạo, tham gia công tác cán bộ theo thẩm quyền với các ban cán sự đảng, đảng đoàn, thủ trưởng chuyên môn cơ quan, đơn vị. Ban Thường vụ Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng đã chủ động nắm chắc chất lượng đảng viên để tham gia công tác đề bạt, bổ nhiệm cán bộ thuộc diện Tỉnh ủy quản lý tại một số đơn vị như: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bưu điện tỉnh, Viện Kiểm sát, Cục Hải quan, Ngân hàng Nhà nước tỉnh, Trường Chính trị tỉnh, Ban Tôn giáo chính quyền,… Đồng thời, tham gia góp ý, nhận xét cán bộ thuộc diện Đảng ủy quản lý để đề bạt, bổ nhiệm ở các cơ quan. Bên cạnh đó, Đảng ủy cũng đề nghị cấp có thẩm quyền tăng thêm biên chế cho đơn vị và tổ chức kiện toàn lại các ban để thực hiện nhiệm vụ có hiệu quả hơn. Nhìn chung, công tác tổ chức, cán bộ trong những năm 2001 – 2005 đảm bảo quy trình chặt chẽ, dân chủ, thống nhất cao.
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên có nhiều tiến bộ. Ban Thường vụ Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng đã chỉ đạo các cấp ủy cơ sở lãnh đạo kịp thời quán triệt các nghị quyết, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, của ngành. Mở đầu là đợt quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh lần thứ XVI. Tiếp đó là việc học tập các nghị quyết của Trung ương, Đảng bộ theo chương trình toàn khóa. Sau khi tổ chức học tập nghị quyết của Đảng, các cơ sở đã tổ chức cho đảng viên thảo luận tại chi bộ và viết bài thu hoạch cá nhân về nhận thức nghị quyết, liên hệ với chức năng, nhiệm vụ của bản thân.
Gắn với quán triệt nghị quyết là việc xây dựng chương trình hành động thực hiện nghị quyết. Hầu hết các cơ sở đảng đã xây dựng chương trình hành động thực hiện nghị quyết đại hội Đảng các cấp và được bổ sung hằng năm. Nội dung chương trình hành động tập trung vào việc lãnh đạo cán bộ, đảng viên tham mưu thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 17 của Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XVI và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa XV, tăng cường công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức.
Đảng ủy đã chỉ đạo các cấp ủy cơ sở tổ chức tốt việc tuyên truyền bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI (4/2002), bầu cử Hội đồng nhân dân ba cấp (4/2004). Phát huy vai trò, trách nhiệm các cơ quan có chức năng tham mưu, chỉ đạo tuyên truyền và phục vụ bầu cử, cán bộ, đảng viên Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng đã góp phần tích cực vào thành công của bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân ba cấp. Song song với việc tuyên truyền, quán triệt nghị quyết của Đảng đến cán bộ, đảng viên, công nhân viên các cơ quan, Đảng ủy đã chỉ đạo các cơ sở lãnh đạo đơn vị phát động phong trào thi đua yêu nước, lập thành tích chào mừng đại hội Đảng các cấp, chào mừng kỷ niệm 30 năm chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” (12/1972 – 12/2002), 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5/2004), 50 năm ngày thành lập Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng (22/9/1954 – 22/9/2004). Thời gian này, Đảng ủy cũng đã chỉ đạo biên soạn và xuất bản cuốn Lịch sử Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh Nghệ An (1954 – 2005),…
Đội ngũ báo cáo viên được kiện toàn, có trình độ. Trong những năm 2001 – 2005, Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng luôn duy trì tốt chế độ sinh hoạt báo cáo viên, bảo đảm được 11 – 12 kỳ trong mỗi năm. Nội dung sinh hoạt báo cáo viên được đổi mới, ngoài các thông tin chính thống được tiếp thu ở trên, còn tăng cường thêm các chuyên đề như: “Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000”, “Ngày Gia đình Việt Nam”, Chỉ thị số 55-CT/TW, ngày 28/6/2000 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng ở cơ sở đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em,… Cử cán bộ tham dự cuộc thi “Báo cáo viên lý luận chính trị giỏi” (2003), Báo cáo viên giỏi về tư tưởng Hồ Chí Minh (2004). Tại cuộc thi “Báo cáo viên lý luận chính trị giỏi” cấp tỉnh, Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng đã đoạt 1 giải Nhất cụm các đơn vị trực thuộc và 1 giải Nhì cấp tỉnh.
Các cấp ủy đảng thường xuyên coi trọng và chăm lo nâng cao nhận thức và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Những tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, công chức được cấp ủy các cấp nắm bắt kịp thời, giải quyết đúng quy định của Đảng và Nhà nước. Nhờ đó, tình hình chính trị, tư tưởng cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng luôn ổn định. Hầu hết cán bộ, đảng viên yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tích cực phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Trong những năm 2001 – 2005, hoạt động của các tổ chức đoàn thể quần chúng có nền nếp, đạt hiệu quả. Phong trào thi đua yêu nước diễn ra sôi nổi, liên tục, thúc đẩy đơn vị hoàn thành và hoàn thành vượt mức mục tiêu kế hoạch được giao.
Trong 5 năm (2000 – 2005), Ban Thường vụ Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng đã tiến hành tách và nâng cấp Chi bộ Nhà khách Nghệ An thành chi bộ cơ sở trực thuộc Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng, làm thủ tục giải thể Chi bộ Ban Đối ngoại, Ban Kinh tế Tỉnh ủy, nhập Đảng bộ Ban Tài chính quản trị Tỉnh ủy vào Đảng bộ Văn phòng Tỉnh ủy, Chi bộ Ủy ban Dân số – Kế hoạch hóa gia đình với Chi bộ Ủy ban Bảo vệ và Chăm sóc bà mẹ trẻ em thành Chi bộ Ủy ban Dân số – Gia đình và Trẻ em. Chuyển đảng viên thuộc Công ty Dịch vụ vật tư bảo vệ thực vật Nghệ An, Chi bộ Chi nhánh Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương, Đảng bộ Nhà khách Giao tế về Đảng bộ Các doanh nghiệp nhà nước. Chuyển Đảng bộ Bưu điện về trực thuộc Tỉnh ủy; tiếp nhận Đảng bộ Ban Quản lý Dự án 85, Ban Quản lý Dự án giao thông 4. Các đảng bộ cơ sở đã sắp xếp lại chi bộ trực thuộc hợp lý. Đến cuối năm 2005, toàn Đảng bộ có 76 tổ chức cơ sở đảng, 2.992 đảng viên trên tổng số 4.538 cán bộ, công nhân viên, trong đó có gần 70% cán bộ, đảng viên có trình độ đại học, cao đẳng trở lên.
Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng đã chỉ đạo các cơ sở đảng thực hiện tốt đại hội các chi bộ trực thuộc Đảng bộ cơ sở theo đúng quy định mỗi năm một lần. Các cấp ủy đảng đã có cố gắng lớn trong việc đầu tư, đổi mới phương thức nội dung sinh hoạt của các chi bộ. Đặc biệt, chú trọng phương thức, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, nâng cao chất lượng tham mưu của các đảng viên là chuyên viên. Duy trì tốt chế độ sinh hoạt Đảng, bình quân hằng năm, các chi bộ, đảng bộ sinh hoạt định kỳ 11,2 kỳ/năm; tỷ lệ đảng viên dự sinh hoạt bình quân hằng năm đạt 96%, nội dung sinh hoạt từng bước được đổi mới.
Trên cơ sở bám sát các quy định về phân loại tổ chức cơ sở đảng, đảng viên của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, cơ chế giám sát đảng viên, Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng đã cụ thể hóa các tiêu chuẩn bằng phương pháp chấm điểm, lượng hóa kết quả đạt được của các tổ chức cơ sở đảng một cách sát thực. Từ sự xem xét, đánh giá của cơ sở, Ban Thường vụ kiểm tra cho điểm, tập hợp nhiều thông tin khác nhau trước khi trình Ban Chấp hành quyết định.
Đảng ủy và cấp ủy cơ sở chăm lo công tác nâng cao chất lượng đảng viên, từng bước gắn công tác quản lý đảng viên với quản lý cán bộ, công chức, tăng cường kiểm tra đảng viên thực hiện Điều lệ Đảng và Quy định số 19-QĐi/TW của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm, đồng thời phối hợp với các tổ chức đảng trên địa bàn dân cư để đánh giá chất lượng đảng viên chặt chẽ và toàn diện. Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng là một trong những Đảng bộ thực hiện tốt Quy định số 76-QĐ/TW của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 29-CT/TU về việc giới thiệu đảng viên đang công tác về tham gia sinh hoạt ở nơi cư trú. Chất lượng đội ngũ đảng viên nhìn chung có nhiều tiến bộ. Đảng viên lãnh đạo bám định hướng, nắm vững chủ trương của Tỉnh ủy để chỉ đạo sâu sát, cụ thể, cách nghĩ, cách làm nhanh nhạy, sâu sắc, sát cơ sở và sát dân hơn. Đội ngũ cán bộ tham mưu, phục vụ tận tâm, có tinh thần trách nhiệm cao hơn trong phục vụ Nhân dân. Đảng ủy đã chú trọng công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bố trí luân chuyển cán bộ nên năng lực, trình độ cán bộ, đảng viên được nâng lên rõ rệt(15).
Công tác phát triển Đảng được quan tâm cả về chất lượng và số lượng. Từ năm 2001 đến tháng 9/2005, Đảng bộ đã kết nạp 596 quần chúng ưu tú vào Đảng.
Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng thường xuyên được coi trọng, đã đi vào nền nếp, góp phần giữ nghiêm kỷ luật Đảng và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong các cơ quan. Trong kiểm tra đã gắn việc thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 12 của Tỉnh ủy (khóa XIV) về tăng cường công tác kiểm tra giữ nghiêm kỷ luật của Đảng với thực hiện cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 6 (khóa VIII). Đồng thời, coi trọng công tác khảo sát nắm tình hình, xây dựng kế hoạch kiểm tra cụ thể từ đầu năm. Phối hợp chặt chẽ giữa Ủy ban Kiểm tra cấp trên với cấp dưới, giữa Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy với các cơ quan có liên quan để nắm thông tin dư luận. Trong kiểm tra đã thực hiện đúng quy trình hướng dẫn, gắn kiểm tra với phát hiện và xử lý sai phạm. Sau kiểm tra đã chỉ đạo xem xét, xử lý kỷ luật và triển khai thực hiện các kiến nghị một cách kịp thời, nghiêm túc, có tác dụng, hiệu quả thiết thực, góp phần xây dựng và củng cố tổ chức đảng. Tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 29 của Bộ Chính trị về công tác kiểm tra, Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng đã được Tỉnh ủy tặng Bằng khen.
Ngày 22/9/2004, tại Nhà khách Nghệ An, số 4, đường Phan Đăng Lưu, thành phố Vinh, Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng long trọng tổ chức kỷ niệm 50 năm thành lập Đảng bộ (22/9/1954 – 22/9/2004). Tại lễ kỷ niệm, Đảng bộ vinh dự được đón tiếp các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, các cán bộ lãnh đạo chủ trì của Đảng bộ qua các thời kỳ, đại diện lãnh đạo các ban, ngành, các đảng bộ huyện trong toàn tỉnh và hàng trăm cán bộ, đảng viên đại diện cho các tổ chức cơ sở đảng trong toàn Đảng bộ về tham dự. Diễn văn buổi lễ kỷ niệm đã nêu rõ quá trình 50 năm hoạt động trưởng thành, khắc họa nổi bật truyền thống “trung thành, đoàn kết, dân chủ, kỷ cương, trí tuệ, đổi mới” của Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng. Nhân dịp này, Đảng bộ vinh dự được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng Ba.
Thực hiện Chỉ thị số 46-CT/TW, ngày 6/12/2004 của Bộ Chính trị và Thông tri số 37-TT/TU, ngày 9/3/2005 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, ngày 13/10/2005, Ban Chấp hành Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng quyết định ban hành Thông tri số 516-TT/ Đ.ủy về triệu tập đại hội. Từ ngày 26 đến 28/10/2005, Đại hội đại biểu Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh Nghệ An lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2005 – 2010 đã được diễn ra tại Nhà khách Nghệ An. Dự Đại hội có 183 đại biểu, thay mặt cho trên 3.000 đảng viên của 76 tổ chức cơ sở đảng trong toàn Đảng bộ. Đại hội vinh dự được đón đồng chí Nguyễn Thế Trung, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh; đồng chí Nguyễn Đăng Thành, Phó Bí thư Tỉnh ủy cùng các đồng chí trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy tham dự và chỉ đạo Đại hội.
Đại hội lần thứ XVII của Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng xác định mục tiêu chung cho nhiệm kỳ 2005 – 2010 là: Xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh gắn với xây dựng cơ quan mạnh, ngành mạnh. Tập trung lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, lấy cải cách hành chính và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở làm nhiệm vụ trọng tâm; nâng cao năng lực, phẩm chất đạo đức, lối sống, ý thức trách nhiệm đối với nhiệm vụ chính trị được giao của cán bộ, đảng viên làm khâu đột phá; nâng cao năng lực lãnh đạo, đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức Đảng. Phấn đấu xây dựng Đảng bộ ngày càng vững mạnh, góp phần đưa Nghệ An sớm thoát khỏi tình trạng tỉnh nghèo và kém phát triển.
Đồng thời, Đại hội cũng nhấn mạnh, nhiệm kỳ 2005 – 2010 cần tập trung: Phát huy vai trò hạt nhân chính trị của các tổ chức đảng, nâng cao chất lượng công tác tham mưu, tổ chức chỉ đạo, điều hành, khai thác tối đa mọi nguồn lực, tăng khả năng cạnh tranh và hội nhập, tạo chuyển biến mạnh mẽ trên các lĩnh vực, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh và công tác xây dựng Đảng của tỉnh.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 21 ủy viên. Tại phiên họp đầu tiên, Ban Chấp hành bầu Ban Thường vụ Đảng uỷ gồm 7 ủy viên. Đồng chí Phạm Anh Tuấn được bầu giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy, đồng chí Nguyễn Hồ Cảnh được bầu giữ chức vụ Phó Bí thư Đảng ủy(16).
Để kịp thời đề ra chủ trương, tổ chức thực hiện, hoàn thành mục tiêu nhiệm vụ chính trị, ngày 23/11/2005, Ban Chấp hành Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng khóa XVII đã ban hành quy chế làm việc. Tiếp đó, ngày 28/11/2005, Ban Thường vụ Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng ban hành Quy định số 09-QĐ/ĐU về tiêu chuẩn đạo đức, lối sống của đảng viên, cán bộ công chức trong các cơ quan Dân Chính Đảng với tinh thần 5 xây và 5 chống. Tuy nhiên, sau khi quy định được triển khai, với nhiều biện pháp được đề ra nhưng hiệu quả vẫn chưa cao, bộc lộ nhiều khuyết điểm, yếu kém. Công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2, khóa VIII) còn hạn chế. Vai trò của nhiều tổ chức Đảng còn mờ nhạt, thiếu tính chiến đấu. Đây là những vấn đề đặt ra cần được khắc phục kịp thời nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Trước tình hình đó, ngày 25/7/2006, Ban Chấp hành Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng đã ban hành Nghị quyết số 01-NQ/ ĐU về nâng cao phẩm chất đạo đức, lối sống, ý thức trách nhiệm và năng lực công tác của cán bộ, đảng viên.
Sau khi Nghị quyết được ban hành, ngày 27/7/2006, Ban Thường vụ Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng đã xây dựng Kế hoạch số 09-KH/ĐU về hướng dẫn học tập và tổ chức thực hiện trong toàn Đảng bộ. Quá trình triển khai nghị quyết được gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW, ngày 7/11/2006 của Bộ Chính trị về tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, đây một chủ trương lớn vừa có ý nghĩa cấp bách, vừa có ý nghĩa lâu dài đối công tác xây dựng Đảng cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ban Thường vụ Đảng ủy đã tập trung chỉ đạo các cấp ủy đảng triển khai cuộc vận động một cách sâu rộng, thiết thực trong toàn thể cán bộ, đảng viên công chức, viên chức và người lao động. Tổng kết 4 năm thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh (2006 – 2010), Ban Thường vụ Đảng ủy khẳng định: cuộc vận động đã tạo được sự chuyển biến trong nhận thức của các cấp ủy đảng, đảng viên về tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, từ đó nêu cao ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, từng bước chấn chỉnh tác phong, thái độ làm việc của cán bộ, đảng viên, công chức(17).
Ngày 31/8/2007, Ban Thường vụ Đảng ủy tổ chức Hội nghị tổng kết Nghị quyết số 01-NQ/Đ.ủy của Ban Chấp hành Đảng bộ về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ chính trị cơ quan. Trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được, tồn tại, khuyết điểm, rút ra những nguyên nhân, bài học kinh nghiệm, Ban Thường vụ đã đề ra những định hướng về nâng cao chất lượng tham mưu, chỉ đạo, hướng dẫn cơ sở, đổi mới cơ chế chính sách, thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước, hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch, dự án. Tập trung đánh giá, rà soát các cơ chế, chính sách, quy định, thủ tục hành chính để tham mưu ban hành hoặc sửa đổi phù hợp với thực tiễn, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh. Tập trung, nghiên cứu các quy định, các nghị quyết chuyên đề của Trung ương, của tỉnh để vận dụng vào điều kiện cụ thể từng cơ quan, đơn vị.
Để tiếp tục đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao chất lượng học tập, quán triệt nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Ban Thường vụ Đảng ủy đã ban hành Đề án “Nâng cao chất lượng hoạt động báo cáo viên”; chỉ đạo các cấp ủy cơ sở phân công trách nhiệm cụ thể cho một đồng chí cấp ủy viên phụ trách công tác tuyên giáo, đồng thời làm báo cáo viên của cơ sở đảng để duy trì sinh hoạt thông tin tư tưởng cho cán bộ, đảng viên. Định kỳ, Đảng ủy chủ động cung cấp thông tin về tình hình thời sự chính trị, định hướng tư tưởng theo chủ đề, các sự kiện lớn cho đội ngũ báo cáo viên cơ sở. Quan tâm nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, phát hiện và giải quyết kịp thời các vấn đề tư tưởng nảy sinh trong nội bộ, trên cơ sở tăng cường chế độ tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng, sinh hoạt chuyên môn và sinh hoạt đoàn thể. Ban Thường vụ Đảng ủy đã chủ động chỉ đạo cấp ủy cơ sở có các giải pháp kịp thời để ổn định tình hình tư tưởng ở một số nơi có biểu hiện mất đoàn kết, thiếu thống nhất trong nội bộ.
Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 2-NQ/ĐU, ngày 28/10/1998 về Đảng lãnh đạo thực hiện cải cách hành chính trong các cơ quan Dân Chính Đảng, công tác cải cách hành chính trong các cơ quan thuộc Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng đã đạt được những kết quả tích cực, rõ nét. Nhận thức của cấp ủy, cán bộ, đảng viên được nâng lên. Từng cơ quan, đơn vị đã xây dựng được hệ thống quy chế tương đối đầy đủ và ngày càng hoàn thiện. Nhiều cơ quan đã thực hiện tốt các nội dung, yêu cầu về cải cách hành chính: xây dựng và công khai, minh bạch các thủ tục hành chính; cải tiến, rút gọn các quy trình giải quyết công việc,… góp phần quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị, xây dựng cơ quan trong Đảng bộ vững mạnh. Tuy nhiên, công tác cải cách hành chính trong các cơ quan thời gian này vẫn còn bộc lộ những bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi trong tình hình mới. Trước thực trạng đó, ngày 1/6/2007, Ban Thường vụ Đảng ủy ban hành Chỉ thị số 01-CT/ĐU về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/Đ.ủy của Ban Chấp hành Đảng bộ về Đảng lãnh đạo thực hiện cải cách hành chính trong các cơ quan Dân Chính Đảng. Trong đó nhấn mạnh các nhiệm vụ, trách nhiệm của đảng viên lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu cơ quan đơn vị. Cải cách hành chính đảm bảo đi vào thực chất, hiệu quả, tránh hình thức, đối phó, cần tập trung vào các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng. Trên cơ sở các bài học kinh nghiệm và các giải pháp đã chỉ ra, các cấp ủy đảng đã lựa chọn những nội dung trọng tâm về cải cách hành chính để tập trung lãnh đạo thực hiện như: rà soát, đề xuất cắt giảm thủ tục hành chính, cải tiến lề lối, phương pháp làm việc, nhằm giải quyết tốt hơn những vấn đề bức xúc, liên quan trực tiếp đến người dân và doanh nghiệp, nhất là trên các lĩnh vực: đất đai, tài nguyên khoáng sản, môi trường, đăng ký kinh doanh, thuế, kiểm tra, thanh tra, đăng ký, quản lý hộ tịch,… Hầu hết các sở đã xây dựng và triển khai trung tâm giao dịch “Một cửa”, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ quản lý, điều hành. Tổ chức bộ máy ở các cơ quan, đơn vị được sắp xếp lại; năng lực tham mưu, tổ chức thực hiện và ý thức trách nhiệm, thái độ, tinh thần phục vụ của đội ngũ cán bộ, công chức được nâng lên; rút ngắn thời gian giải quyết công việc, giảm bớt phiền hà cho cơ sở, doanh nghiệp và Nhân dân.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được quan tâm, Ban Thường vụ Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng thường xuyên duy trì và triển khai tốt việc tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác đảng cho cán bộ cơ sở, bồi dưỡng lý luận chính trị cho quần chúng ưu tú và đảng viên mới; phối hợp với Trường Chính trị tỉnh mở các lớp trung cấp lý luận chính trị, quản lý nhà nước cho đảng viên của Đảng bộ; phối hợp với các ngành mở các lớp chuyên đề để nâng cao kiến thức về kinh tế – xã hội cho đội ngũ báo cáo viên cơ sở. Trong 5 năm (2005 – 2010), Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng đã tổ chức 11 lớp bồi dưỡng kết nạp Đảng, 8 lớp bồi dưỡng lý luận chính trị, 22 lớp bồi dưỡng cấp ủy cơ sở, bí thư chi bộ trực thuộc; phối hợp với Trường Chính trị tỉnh mở 4 lớp trung cấp chính trị cho cán bộ chủ chốt và dự nguồn ở cơ sở.
Để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên trong các cơ quan Dân Chính Đảng, ngày 15/7/2008, đồng chí Nguyễn Hồ Cảnh – Phó Bí thư Đảng ủy thay mặt Ban Thường vụ Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng ký ban hành Đề án số 01-ĐA/ĐU về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong các cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh Nghệ An. Đây là đề án có sức lan tỏa rất lớn đối với các cơ sở đảng. Thực hiện đề án, các tổ chức cơ sở đảng đã nâng cao được vị thế và uy tín của mình trong từng đơn vị.
Cấp ủy trong các cơ quan, sở, ban, ngành cấp tỉnh đã lãnh đạo đảng viên, cán bộ, công chức phát huy tinh thần trách nhiệm, chủ động sáng tạo, nâng cao chất lượng tham mưu, chỉ đạo xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án theo Nghị quyết số 01-NQ/ĐU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy (khóa XVI) trên các lĩnh vực kinh tế – xã hội và xây dựng Đảng. Việc tham mưu xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển của ngành; tham mưu ban hành, bổ sung, sửa đổi cơ chế, chính sách về quản lý đất đai, tài nguyên khoáng sản, xây dựng cơ bản, thu hút đầu tư, huy động các nguồn lực được các ngành chủ động thực hiện. Một số cơ chế, chính sách về y tế, giáo dục, xóa đói, giảm nghèo, thu hút nguồn lực, phát triển nông nghiệp, nông thôn sớm phát huy hiệu quả. Các tổ chức cơ sở đảng trong các cơ quan đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đã bám sát chức năng, nhiệm vụ, lãnh đạo nâng cao chất lượng tham mưu, tuyên truyền, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra cơ sở trong việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tổ chức thực hiện có hiệu quả các phong trào, các cuộc vận động tham gia phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa… Tổ chức cơ sở đảng trong các đơn vị sự nghiệp, các cơ quan báo chí và các đơn vị trực thuộc Trung ương đóng trên địa bàn đã tập trung lãnh đạo nâng cao hiệu quả công tác chuyên môn, nghiệp vụ, hoàn thành tốt các chỉ tiêu kế hoạch, nhiệm vụ được giao; lãnh đạo thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cổ vũ các gương điển hình tiên tiến; tham mưu và chỉ đạo thực hiện các chủ trương, cơ chế chính sách thuộc lĩnh vực của đơn vị; tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ngày 10/12/2007, Ban Thường vụ Đảng ủy ban hành Chỉ thị số 02-CT/ĐU về tăng cường sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng đối với công tác Thanh niên trong các cơ quan Dân Chính Đảng. Tiếp đó, ngày 22/5/2009, Ban Thường vụ Đảng ủy ban hành Đề án số 02-ĐA/ĐU về nâng cao chất lượng công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho đoàn viên, thanh niên trong các cơ quan Dân Chính Đảng. Lãnh đạo Đoàn Các cơ quan Dân Chính Đảng thực hiện tốt cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác” gắn với việc thực hiện nghị quyết đại hội Đoàn các cấp và phong trào “5 xung kích phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc”, “4 đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp”. Phát huy vai trò xung kích, tình nguyện của tuổi trẻ trong thực hiện nhiệm vụ chính trị, xây dựng nếp sống văn hóa trong cơ quan, tích cực tham gia các hoạt động nhân đạo, từ thiện, xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc gia đình thương binh, liệt sĩ. Liên tục trong những năm 2005 – 2010, Đoàn Các cơ quan Dân Chính Đảng được Tỉnh đoàn xếp loại là Đơn vị vững mạnh xuất sắc.
Ban Thường vụ Đảng ủy thường xuyên quan tâm nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ; triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 10-CT/TW, ngày 30/3/2007 của Ban Bí thư Trung ương, Hướng dẫn số 08-HD/TU của Ban Tổ chức Tỉnh ủy và Hướng dẫn số 09-HD/ĐU, ngày 5/10/2006 của Ban Thường vụ Đảng ủy về một số nội dung nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Các đảng bộ, chi bộ quan tâm đổi mới nội dung sinh hoạt chi bộ, chú trọng sinh hoạt chuyên đề, sinh hoạt tư tưởng, nâng cao tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng.
Công tác quản lý đảng viên được tăng cường thông qua sinh hoạt chi bộ và sự phối hợp với địa phương nơi đảng viên cư trú, tổ chức lấy phiếu tín nhiệm định kỳ đối với đảng viên về phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm và năng lực tại nơi công tác. Trong nhiệm kỳ, toàn Đảng bộ kết nạp được 709 quần chúng ưu tú vào Đảng, trong đó có 531 đồng chí là đoàn viên, thanh niên; chuyển đảng viên chính thức cho 715 đồng chí, có 472 đảng viên được trao Huy hiệu Đảng.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ, được các cấp ủy đảng quan tâm chỉ đạo thực hiện theo đúng các quy định của Trung ương. Tất cả các trường hợp đề bạt, bổ nhiệm cán bộ; kết nạp Đảng được thẩm tra hồ sơ, lý lịch chặt chẽ, đảm bảo tiêu chuẩn chính trị theo quy định. Ban Thường vụ Đảng ủy kiểm tra, rà soát việc quản lý hồ sơ đảng viên của tất cả các tổ chức cơ sở đảng. Quản lý hồ sơ đảng viên, cơ sở dữ liệu đảng viên chặt chẽ theo chế độ mật.
Công tác kiểm tra, giám sát tiếp tục được tăng cường, có sự đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng, hiệu quả phục vụ nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng tổ chức đảng. Cấp ủy các cấp trong Đảng bộ đã tổ chức tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 29 của Bộ Chính trị (khóa VIII), Nghị quyết số 12 của Tỉnh ủy (khóa XIV) về “Tăng cường công tác kiểm tra, giữ nghiêm kỷ luật của Đảng”; quán triệt và triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Nhìn chung, cấp ủy và Ủy ban Kiểm tra hai cấp đã chủ động xây dựng chương trình và thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát theo chương trình. Trong đó, tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, việc lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng đối với thực hiện nhiệm vụ chính trị, thực hiện cải cách hành chính, quy chế dân chủ cơ sở, thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí; kiểm tra việc lãnh đạo công tác cán bộ, thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; chú trọng kiểm tra các lĩnh vực, các cơ quan dễ xảy ra tiêu cực, sai phạm; giải quyết kịp thời, dứt điểm các đơn thư tố cáo, khiếu nại thuộc thẩm quyền. Thực hiện nghiêm túc các kết luận thanh tra, kiểm tra, xử lý kỷ luật nghiêm minh, đối với cán bộ, đảng viên có sai phạm, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, thúc đẩy hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị. Trong 5 năm, cấp ủy hai cấp trong Đảng bộ đã kiểm tra 2.087 lượt tổ chức đảng, 1.241 lượt đảng viên, giám sát 160 lượt tổ chức đảng, 566 lượt đảng viên; Ủy ban Kiểm tra hai cấp đã tiến hành kiểm tra 31 tổ chức đảng, 75 đảng viên có dấu hiệu vi phạm; kiểm tra 602 lượt tổ chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát.
Nhìn chung, từ năm 1997 đến 2010, Đảng bộ Các cơ quan Dân chính Đảng đã tập trung lãnh đạo thực hiện đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và triển khai nhiệm vụ chính trị trong thời kỳ đổi mới. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ từng cơ quan, các cấp ủy đã thực hiện tốt việc xác định và làm rõ nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đề ra phương thức lãnh đạo phù hợp. Các cơ quan đảng trong các cơ quan quản lý nhà nước đã tập trung lãnh đạo nâng cao chất lượng tham mưu, xây dựng cơ chế, chính sách, tạo sự chuyển biến trong thu hút đầu tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển khoa học kỹ thuật, giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe Nhân dân. Các cơ sở đảng trong các đơn vị sự nghiệp và đơn vị trực thuộc Trung ương đóng trên địa bàn đã lãnh đạo nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác chuyên môn, bám sát nhiệm vụ chính trị để tổ chức thực hiện hoàn thành và hoàn thành vượt mức chỉ tiêu nhiệm vụ cấp trên giao. Nhiều chủ trương, chính sách đã phát huy hiệu quả như chính sách thu hút đầu tư gắn với tăng thu ngân sách, cơ chế quản lý điều hành ngân sách, khoán biên chế và chỉ tiêu hành chính; cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực giao thông, nông nghiệp, nông thôn, công nghiệp, đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý đô thị, tài nguyên – môi trường, giáo dục – đào tạo, y tế, văn hóa, thể dục, thể thao, thu hút nguồn nhân lực. Vai trò quản lý nhà nước và hiệu quả quản lý, điều hành của các sở, ngành, năng lực, trình độ cũng như ý thức trách nhiệm công tác của đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng được nâng lên, góp phần thực hiện tốt quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ghi nhận những đóng góp, cống hiến to lớn của cán bộ, đảng viên Đảng bộ, ngày 21/7/2009, Chủ tịch nước đã tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhì cho Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng.
Chú thích:
(1) Văn kiện Ðại hội Ðảng bộ Các cơ quan tỉnh Nghệ An lần thứ XIII, Hồ sơ số 455, cặp 36, lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Nghệ An.
(2) Hội nghị giữa nhiệm kỳ Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Nghệ An được tổ chức tại thành phố Vinh, vào ngày 25/2/1994. Tại Hội nghị đã bầu bổ sung 3 Ủy viên Ban Chấp hành. Đến tháng 5/1994, đồng chí Hồ Sỹ Đồng được bầu bổ sung giữ chức vụ Phó Bí thư Đảng ủy.
(3) Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Nghệ An, ngày 12/4/1996, lưu tại Hồ sơ số 321, ghi: Đại hội đại biểu Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Nghệ An nhiệm kỳ III (1996 – 2000).
(4) Trích Nghị quyết Ðại hội đại biểu Ðảng bộ Các cơ quan tỉnh Nghệ An lần thứ XIV, lưu tại Văn phòng Ðảng ủy Khối các cơ quan tỉnh Nghệ An.
(5) Văn bản gốc lưu tại Hồ sơ số 07, mục 2, phông 1 gọi là Đại hội Đảng bộ Các cơ quan Dân Chính Đảng lần thứ nhất.
(6) Trích Nghị quyết Ðại hội đại biểu Ðảng bộ Các cơ quan Dân Chính Ðảng lần thứ XV, lưu tại Văn phòng Ðảng ủy.Khối các cơ quan tỉnh Nghệ An.
(7) Nâng cấp Chi bộ cơ sở Nhà khách Giao Tế thành Đảng bộ cơ sở; nâng cấp Chi bộ Ban Bảo vệ sức khỏe cán bộ tỉnh thuộc Đảng bộ Sở Y tế và Chi bộ Chi cục Phát triển Lâm nghiệp thuộc Đảng bộ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành Chi bộ cơ sở trực thuộc Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng; thành lập Chi bộ Ban Quản lý Dự án Khu công nghiệp Nghệ An trực thuộc Đảng ủy Các cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh Nghệ An.
(8) Số liệu thống kê tại Báo cáo số 206a-BC/Đ.ủy, ngày 30/12/1999 về tình hình công tác xây dựng Đảng năm 1999.
(9) Cách gọi văn kiện gốc là Đại hội lần thứ II, Hồ sơ số 209, mục lục 3, phông 1, từ 22/3/2000 – 11/2005, tr. 2, lưu tại Văn phòng Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh Nghệ An.
(10) Nghị quyết Ðại hội đại biểu Ðảng bộ Các cơ quan Dân Chính Ðảng lần thứ XVI tháng 12/2000, lưu tại Văn phòng Ðảng ủy Khối các cơ quan tỉnh Nghệ An.
(11) Trích Nghị quyết Ðại hội đại biểu Ðảng bộ Các cơ quan Dân Chính Ðảng lần thứ XVI. Lưu tại Văn phòng Ðảng ủy Khối các cơ quan tỉnh Nghệ An.
(12) Từ tháng 3/2004 đến tháng 7/2005, đồng chí Nguyễn Hữu Lậm giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy. Từ tháng 8/2005, đồng chí Phạm Anh Tuấn giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy.
(13) Tài liệu lưu tại Hồ sơ số 209, mục lục 3, phông 1, từ 22/3/2000 – 11/2005, lưu trữ Văn phòng Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh Nghệ An.
(14) Đây là một nghị quyết rất quan trọng, được các cơ sở đảng thực hiện tốt, có sức lan tỏa lớn. Từ mô hình này, năm 2011, tỉnh Nghệ An đã cho triển khai rộng rãi trong toàn tỉnh.
(15) Năm 2001, có 2.557/2.601 đảng viên dự phân loại; kết quả 2.421 đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ (94,6%), đủ tư cách hoàn thành nhiệm vụ có 114 đảng viên (4,45%), đảng viên vi phạm tư cách 22 (0,86%); trong đó có 274 đảng viên được suy tôn đảng viên xuất sắc (11,3%). Đến năm 2004, tổng số đảng viên dự phân loại 2.806/2.824; kết quả 2.689 đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ (95,83%), có 100 đảng viên đủ tư cách hoàn thành nhiệm vụ (3,56%), đảng viên vi phạm tư cách 17 (0,61%), có 490 đảng viên được suy tôn là đảng viên xuất sắc (17,46%).
(16) Tháng 4/2007, đồng chí Tô Hồng Hải, Bí thư Thành ủy Vinh được điều động về làm Bí thư Đảng ủy, thay đồng chí Phạm Anh Tuấn được điều về làm Bí thư Thành ủy Vinh. Từ tháng 10/2008 đến 12/2010, đồng chí Trần Công Dương, Hiệu trưởng Trường Chính trị tỉnh được điều động về làm Bí thư Đảng ủy, thay đồng chí Tô Hồng Hải được điều động làm Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy. Tháng 9/2009, đồng chí Nguyễn Hồ Cảnh được điều động và bổ nhiệm làm Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Tương Dương. Tháng 12/2009, đồng chí Nguyễn Trọng Chân, Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tổ chức Đảng ủy được bầu làm Phó Bí thư Đảng ủy.
(17)Đảng bộ Cơ quan Tỉnh đoàn, Chi cục Kiểm lâm, Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Giao thông vận tải, Bảo hiểm xã hội, Chi bộ Ban Dân vận Tỉnh ủy, Đảng bộ Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Xây dựng, Đài Phát thanh và Truyền hình giúp đỡ xã Đoọc Mạy, Mường Típ, Mường Ải, Phà Đánh, Bắc Lý, Hữu Kiệm, Bảo Nam, Tây Sơn, Huồi Tụ của huyện Kỳ Sơn. Đảng bộ Cơ quan Liên đoàn lao động tỉnh, Chi bộ Hội Nông dân, cơ quan Mặt trận Tổ quốc tỉnh, Chi cục Phát triển Lâm nghiệp, Đảng bộ Sở Lao động và Thương binh và Xã hội, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Y tế, Sở Tài chính, Chi bộ Chi cục Hợp tác xã giúp đỡ xã Nga My, Yên Thắng, Yên Na, Lưu Kiền, Tam Đình, Lượng Minh, Tam Hợp, Yên Tĩnh, Xá Lượng, Tam Hợp của huyện Tương Dương.